Gấu ngựa Tây Tạng có hơi khác so với gấu thường, so   mặt mũi chúng có đôi phần giống mặt ngựa, nhìn rất xấu xí hung dữ, nên   mới có tên gọi như vậy. Con gấu ngựa rơi từ phía trên đỉnh đầu chúng tôi   xuống đang khua khoắng móng vuốt dưới ánh trăng, lộn nhào đụng vào tảng   đá nhô ra trên vách núi. 
            
Tàng cốt câu vốn là một khe nứt ra từ dốc Cả-chinh, vách núi   hai bên chật hẹp lại dốc đứng, khiến con gấu ngựa đụng vào tảng đá bên   này bị hất chếch đi, văng xuống lùm cây gai cằn cỗi mọc trên vách núi   bên kia. Sức rơi của vật nặng nghìn cân mạnh phải biết, lập tức khiến   bụi cây khô gãy gục, con gấu bị cành cây chọc thủng một lỗ lớn ở bụng,   còn chưa rơi xuống đất mà ruột đã lòi ra, uỳnh uỵch lăn tiếp, cuốn theo   không ít đá vụn và cành khô. 
Người ngồi phía dưới đều ngây ra kinh hãi, quên mất phải né tránh. 
Trong khoảnh khắc đứng tim ấy, may có người chợt hét lớn: "Mau   nấp ra phía sau! Áp sát lưng vào vách núi, chớ cử động!" Tuyền béo,   Xư-chê và Peter Hoàng mới giật mình nhớ ra, vội kéo ba người nhà Minh   Thúc và đám cửu vạn chân tay đang mềm oặt đi vì run sợ, nháo nhào chạy   ra phía sau cây cổ thụ bên rìa vách núi náu mình. 
Gần như cùng lúc, con gấu ngựa cũng đập mình xuống đáy khe. Tôi   với Shirley Dương đang ngồi cách đó khá xa mà vẫn cảm thấy một luồng   gió thổi thốc vào mặt. con gấu thân thể nặng nề giống như một quả bom   tấn, làm mặt đất xung quanh rung chuyển mấy chập. Quay lại nhìn, thì   thấy nó đã nát bét, biến thành một mớ máu thịt hỗn độn. 
Tiếp đó, từ trên cao đá vụn lở lại trút xuống ào ào, sức mạnh   đúng như a Xư-chê miêu tả, một viên đá từ độ cao nghìn mét lao xuống, dù   chỉ bé bằng cái móng tay, cũng đủ để đập chết người. Mọi người nép chặt   vào vách núi phía sau mấy câu cổ thụ, không dám cựa quậy, cũng đã hết   chỗ tránh rồi, chỉ còn biết cầu xin Bồ Tát phù hộ mà thôi. 
May là chỗ con gấu ngựa nhảy xuống tự sát cách chúng tôi khá   xa, không có ai thương vong. Tất cẩ đều không biết rốt cuộc là chuyện gì   xảy ra, lẽ nào truyền thuyết xa xưa đã thành sự thật? Hay phương thức   tế lễ kia đã lại được khôi phục? Nhưng Luân Hồi tông đã diệt vong mấy   trăm năm trước, đâu còn tồn tại trên đời nữa, con gấu ngựa Tây Tạng   này... 
Đá vụn trên cao rơi xuống thưa dần, may là đàn bò Yak và ngựa đều không kinh hãi bỏ chạy, mà trái lại đều tròn mắt ngây ra. 
Đúng lúc chúng tôi tưởng mọi chuyện đã kết thúc, Tuyền béo lại   bất ngờ chỉ tay lên cao nói: "Ối mẹ ơi, đội cảm tử quân...  lại tới   rồi!" 
Tôi còn chưa kịp ngẩng đầu lên nhìn, đã lại có một con thú   hoang rơi sập xuống, chiếc sừng cắm phập vào lưng một con ngựa của chúng   tôi với đà lao khủng khiếp. Con ngựa lập tức gẫy xương gục chết. Định   thần lại mới nhìn rõ, vừa rơi xuống chết chính là một con dê núi Côn   Luân sừng dài cổ trắng. 
Sau đó lại liên tiếp có mười mấy con dê khác từ trên đỉnh khe   lao xuống, khiến lũ ngựa nhất loạn kinh hoảng, bắt đầu có mấy con hí   vang, giật đứt dây thừng nhốn nháo phi qua đám bò Yak, men theo dài khe   ngoằn ngoèo, điên cuồng lao về phía trước. 
Lũ bò Yak phản ứng chậm chạp hơn cũng đã nổi điên, hùng hục   chạy theo đám ngựa lồng. Tiếng vó ngựa vó bò lộp cộp, cùng tiếng rống   hỗn loạn mỗi lúc một xa trong khe sâu hun hút, chỉ còn vọng lại những âm   thành rầm rập trầm đục. 
Đám anh Xư-chê vốn định ăn cơm uống rượu xong mới dỡ hành lý   xuống, thành ra đồ đạc thiết bị vẫn còn nằm cả trên lưng bò, mà quan   trọng nhất chính là nước gừng tươi. Không có nước gừng thì không thể đục   băng được. Mặc dù chúng tôi có thuốc nổ để phòng xa, nhưng dùng thuốc   nổ trên sông bằng có khác nào tự tìm đến cái chết. 
Ngoài ra đối với người Tây Tạng, bò Yak rất quý. Nhà anh Xư-chê   thuộc hàng khá giả trong vùng mà bất quá cũng chỉ có ba con bò Yak và   hơn hai mươi con dê; một lúc mất cả mười mấy con bò, tổn thất thật vô   cùng lớn. 
Chúng tôi thấy bên trên không còn thú hoang nhảy xuống nữa, bèn   bất chấp nguy hiểm, chia làm hai đội, tôi và anh Xư-chê, cộng thêm   Tuyền béo, nắm chắc vũ khí, lập tức xuất phát đuổi theo đàn bò phía   trước, những người còn lại thu dọn hành trang, rồi theo sau. 
Chúng tôi men theo Tàng cốt câu khúc khuỷu tiến về phía trước,   dưới đất lổn nhổn dấu chân bò ngựa giẫm đạp giày xéo, lẫn lỗn không ít   xương khô vùi lấp trong bùn đất bị hất tung lên. Những mảnh xương đã mục   ruỗng từ lâu, thi thoảng lại phát ra ánh lân quang như ngọn lửa ma   trơi. Thật không khó tưởng tưởng ra cảnh đem rùng rợn xa xưa trong khe   này với xương trắng chồng chất khắp nơi và ánh lửa ma trơi lập lòe. Hai   bên khe cỏ dại mọc um tùm cao quá nửa thân người, lác đác lẫn với cây   khô và dây leo, quanh cảnh quả hết sức tiêu điều lạnh lẽo. 
Chúng tôi rượt đuổi một chặng khá xa, xung quanh không có động   tĩnh gì, không nghe có tiếng vó bò vó ngựa, cũng không thấy ánh đèn của   người phía sau, đành dừng lại nghỉ. Anh Xư-chê rút túi da đựng rượu ra,   ba người lần lượt uống mấy ngụm lớn cho thêm phần can đảm, Tuyền béo lại   rít một hơi thuốc phả ra một vòng khói. 
Tôi hỏi anh Xư-chê xem chuyện con gấu ngựa và lũ dê sừng dài   nhảy xuống khe tự sát là thế nào, bao năm nay có xảy ra đâu, sao lại xảy   ra vào đúng lúc chúng ta tới. 
Anh Xư-chê lắc đầu: "Tôi cũng gần mười năm nay không tới đây   rồi, người khác lại càng không. Trước kia ngoài nghe kể những truyền   thuyết xa xưa, quả thực chưa ai tận mắt chứng kiến, không rõ vì sao   chúng ta với tới lại đột nhiên bắt gặp sự việc quái đản này." 
Ba người chúng tôi bàn bạc hồi lâu, rồi lại theo khe núi đi tới   tìm đàn bò Yak và ngựa. Chúng tôi cũng biết trong thời gian ngắn không   thể đuổi kịp nữa, lại e cách đoàn người phía sau quá xa, vạn nhất có sự   biến gì thì không kịp tiếp ứng nên đành đi chậm lại. 
Phía trước mặt mỗi lúc một um tùm rập rạp, anh Xư-chê đột nhiên   dừng lại, cảnh giác chỉ tay vào lùm cỏ dại bên đường. Một mùi rất lạ   bốc lên, từa tựa mùi xác rữa lẫn mùi thú rừng hôi hám, tanh sặc sụa. 
Tuyền béo vác súng trường thể thao, tôi cầm khẩu Remington,   trong tay Xư-chê là cây súng săn anh vẫn quen dùng, đều đã sẵn sang vào   tư thế chiến đấu, chuẩn bị vạch cỏ dại ra xem bên trong có gì. 
Còn chưa đợi chúng tôi áp sát, từ lùm cỏ đột nhiên vọt ra một   con sói cái, từ trên cao vồ xuống, định đánh cú bất ngờ, động tác vừa   nhanh vừa mạnh mẽ. Anh Xư-chê đi đầu động tác còn nhanh hơn, không cần   nổ súng, rút ngay con dao Tây Tạng ra chém "xoẹt" một phát, bổ thẳng   giữa mũi con sói cái, xẻ toác đôi đầu nó ra. Con sói chết ngay tại trận. 
Tôi và Tuyền béo đều tấm tắc khen ngợi đao pháp thật tuyệt, vừa nhanh lại vừa chuẩn. 
Anh Xư-chê cười ha hả nói, năm xưa tôi là đội trưởng đội diệt   sói của làng Kelamer, không phải tự nhiên có được cái chức đấy đâu, con   sói này định đánh úp chúng ta, hôm nay cho nó xúi quẩy. 
Đanh thao thao bất tuyệt bỗng anh Xư-chê dừng chuyện, giương   súng lên, xem ra vẫn chưa hết sói phía sau lùm cỏ. Chúng tôi cùng chĩa   súng gạt cỏ dại um tùm ra, chỉ thấy trên vách núi lộ ra một của hang   lớn, bên trong lúc nhúc một lũ lông lá. Ánh trăng mờ ảo soi vào, thì ra   là một ổ sói con đang sợ hãi co rúm lại với nhau. Có thể con sói mẹ hồi   nãy bị đàn bò Yak lồng lên làm cho kinh hãi, lại thấy người đi qua, mới   lao ra định sát thương con người để bảo vệ đàn con. 
Anh Xư-chê xưa nay luôn kè kè bịch rượu, giờ này đã ngà ngà hơi   men, máu sát sinh bốc lên, liền rút con dao Tây Tạng định chui vào   trong hang đâm chết hết lũ sói con kia. 
Tuyền béo ban nãy khi con sói mẹ bất ngờ đánh úp vốn chưa kịp   thể hiện gì, vội chạy lên trước, ngăn anh Xư-chê: "Giết gà cần gì dao mổ   trâu chứ. Xử lý lũ sói con này đâu cần phải tốn sức thế? Các vị cứ xem   béo tôi đây!" Nói rồi moi trong ngực áo ra một túm nhỏ chập ba kíp mìn,   lấy điếu thuốc ngậm trên mồm châm lửa, vung tay ném vào hang. 
Chúng tôi vội tránh sang bên, mấy giây sau đã nghe nổ ầm trong hang, khói bốc ra ngùn ngụt. 
Đợi khói tan hết, chúng tôi nhảy vào hàng càn quét trận cuối   cùng, con sói nào chưa chết thì bồi thêm một nhát dao cho chết hẳn, kế   đó mới để ý quan sát lòng hang rộng phát choáng, la liệt mảnh đồ đồng.   Xem ra đây chính là nơi hành lễ bí mật trong Tàng cốt câu, nhưng vì sau   này bị bầy sói chiếm cứ, thành ra rất nhiều dấu vết và vật dụng đã bị   phá hủy cả, không cách nào nhận ra được nữa. Ngoài ra, trong hang còn có   rất nhiều xương động vật, một số còn mới, đang bị gặm nham nhở, chứng   tỏ bọn sói đã dựa vào địa hình đặc biệt trong Tàng cốt câu này để sinh   tồn. Do không quen rượt đuổi săn mồi trên cao nguyên, chúng nghĩ ra cách   dồn con mồi chạy tới đỉnh dốc Cả-chinh. Ở đây, nếu không biết trước,   đứng từ xa sẽ rất khó phát hiện ra trên dốc núi có một rãnh sâu, đã lao   tới đó có muốn dừng lại thì cũng muộn rồi. Bầy sói từ vùng thảo nguyên   bị đuổi về vùng núi này, cơ bản là đã sa vào bước đường cùng, thật không   ngờ lại biết lợi dùng nơi tế lễ cổ xưa kia để sống sót. 
Ra khỏi hang sói, Tuyền béo và anh Xư-chê cao hứng bàn luận hết   sức sôi nổi. Có lẽ khi lũ sói đói dồn bầy dê sừng dài lên núi, con gấu   ngựa xấu số lẩm cẩm thế nào đã bị cuốn theo thôi, chứ con gấu to vật đó   mà lâm vào bước đường cùng, nổi điên lên thì mười mấy con sói đói chưa   chắc đã làm gì được nó. Nhưng đấy là nói khi cùng đường mạt lộ thôi, còn   bình thường e là nó cũng muốn tránh bầy sói, chẳng qua hôm nay gặp vận   xúi quẩy mới rơi xuống khe sâu, thân mình giập nát thành nhân bánh thịt   gấu. 
Tôi cũng định chõ mồm góp chuyện vài câu, nhưng sực nghĩ không   biết cả đàn sói vây đuổi thú rừng trên dốc Cả-chinh này có bao nhiêu   con, sợ là nhất định sắp từ phía sau quành về Tàng côt câu rồi. Vì theo   lời anh Xư-chê, phía trước Tàng cốt câu liền với sông băng cổ Thần loa   câu, địa hình dốc đứng, chỉ duy nhất có thể đi vào theo đường này, nên   để quay về tha lũ dê ngã chết đàn sói không thể đến từ hướng trước mặt   chúng tôi được. 
Lũ bò Yak và ngựa ở phía trước vậy là sẽ không bị bầy sói tập   kích, song đám người đi phía sau chúng tôi thì không có sự chuẩn bị gì.   Tôi từng đương đầu với sói dữ Tây Tạng, cái ngữ ấy xuất quỷ nhập thần,   quả thực hết sức giảo hoạt, nếu bọn Minh Thúc mà bị chúng đánh lén, thì   khó đảm bảo không có thương vong. Tôi nói suy nghĩ này với Tuyền béo và   anh Xư-chê, cả ba lập tức quyết định quay lại. Suy cho cùng thì mạng   người là quan trọng, tạm thời mặc xác lũ bò Yak kia vậy. 
Tuy nhiên mới đi được một đoạn liền thông thấy ánh đèn thấp   thoáng, thì ra hội Shirley Dương đã đuổi kịp chúng tôi. Bọn họ từ xa   nghe tiếng nổ, tưởng chúng tôi gặp phải nguy hiểm gì, nên vội chạy tới   tiếp ứng. 
Tôi thấy cả hai nhóm đã tập hợp lại một chỗ, bấy giờ mới yên   tâm. Nhưng anh Xư-chê đột nhiên lại giương súng, thì ra là có mấy con   sói dữ xuất hiện. Chúng dừng lại ở khoảng cách nằm ngoài tầm súng, không   tiến lên nữa. Trong bóng đêm, chỉ thấp thoáng thấy đôi mắt xanh lè và   những cái bóng lờ mờ. 
Những người có vũ khí đều lăm lăm súng, chuẩn bị bắn. Tôi vội   ngăn lại: "Bọn sói đang thăm dò hỏa lực đấy. Chúng ta chỉ có hai cây   súng trường có thể bắn mục tiêu ở cự ly xa, hẵng khoan nổ súng vội, đợi   chúng tiến sát lại gần rồi cùng lia cho một loạt thì hơn!" Dù sao chúng   tôi cũng khá đông, súng ống lại nhiều, cứ cho là lũ soi quanh vùng này   có tập hợp hết lại, bất quá cũng chỉ mấy mươi con, chỉ cần sớm đề phòng   thì cũng không cần phải sợ chúng. 
Đúng lúc ấy, đằng xa đột nhiên nổi lên một cái bóng trắng, lông   tóc lất phất trong gió đêm. Tôi sững người, lập tức nhớ đến cái đem ở   ngôi miếu nát trong chùa Đại Phượng Hoàng, cảnh tưởng ác chiến với bầy   sói vẫn còn sờ sờ trước mắt, tựa như mới xảy ra ngày hôm qua. Mẹ kiếp,   không phải oan gia không đối đầu thế này. Vậy là cách đúng mười năm, ở   chốn sâu trong núi Côn Luân giáp ranh giữa ba vùng Tây Tạng, Thanh Hải,   Tân Cương này, lại gặp phải con sói chúa lông trắng, không ngờ nó vẫn   còn sống. Vừa nãy chúng tôi giết bao nhiêu sói con như thế, hận thù đôi   bên ắt hẳn càng thêm sâu sắc. 
Tôi khẽ hỏi Tuyền bèo: "Cậu nổ súng từ khoảng cách này liệu có   chắc ăn không? Giết giặc trước hết phải nhắm tướng mà diệt, cậu bắn chết   con sói chúa, những con còn lại sẽ không thể uy hiếp chúng ta được. Tốt   nhất làm sao nổ được một phát khử nó luôn ấy." 
Tuyền béo cười đáp: "Chuyện vặt! Tư lệnh Nhất đợi lột lấy tấm   da lông trắng nhé!" v ừa nói dứt lời liền giương cây súng trường trong   tay ngắm thật chuẩn, ngón tay đặt sẵn sàng lên cò súng. 
Tôi khấp khởi mừng thầm, phen này nếu trừ khử được nó tại đây,   cũng coi như trị khỏi được một khối tâm bệnh của tôi. Nhưng đúng lúc   Tuyền béo đang rê súng theo mục tiêu, chuẩn bị bóp cò, thì con sói trắng   đã kịp lánh vào góc chết của đường đạn, cả bầy sói cũng theo đó lẩn mất   trong bóng tối. Tuyền béo tức tối chửi đổng một tiếng, đành hạ súng   xuống.
Lũ sói biết nếu lao từ trong cái khe chật hẹp kia   ra chắc chắn sẽ dính đạn, nên lẳng lặng rút lui. Nhưng tôi biết tỏng   bọn chúng cực kỳ căm hận, bỏ đi lúc này chỉ là tạm thời tránh đi mà   thôi, nhất định vẫn luôn rình rập chờ cơ hội để tấn công không chút do   dự. 
            
            Chúng tôi có muốn cũng không truy đuổi được, cả đoàn đành tiếp   tục tiến lên, trước mắt phải lo tìm lũ bò ngựa đã chạy mất hút đã. Lòng   vòng trong Tàng cốt câu mãi, ai nấy mệt mỏi rã rời, cuối cùng cũng tìm   thấy lũ bò Yak đang gặm cỏ trên dốc núi bên cửa khe. 
  
            Anh Xư-chê và năm gã cửu vạn thấy đàn bò Yak bình yên vô sự thì   mừng phát điên, quên cả mệt nhọc, vội vội vàng vàng chạy thẳng lên sườn   núi, bọn tôi từ từ đi phía sau. Bất chợt cả đám đều sững người, cảnh   tượng trước mắt e là còn ly kỳ hơn cả lúc con gấu ngựa rơi uỳnh uỵch từ   trên trời xuống, sáu người nằm bên cạnh đàn bò chính là hội anh Xư-chê.   Bọn họ dường như kinh hãi quá độ, nên đều ngã lăn cả ra đất, toàn thân   run lẩy bẩy. 
  
            Người khác thì đã đành, còn một tay cứng cỏi vung dao chém sói   chẳng chút cau mày như anh Xư-chê làm sao phải kinh sợ đến mức ấy được?   Trông thế nằm của bọn thì thì không phải ngã xiên xẹo loạn xà ngầu, mà   cùng châu đầu về một hướng, úp mặt sát đất, toàn thân run lẩy bẩy, tôi   càng cảm thấy kỳ lạ, lẽ nào không phải vì sợ hãi quá độ mà dang sụp lại   ai đó? Có điều từ lúc mấy người này phăm phăm chạy lên sườn núi đến giờ   bất quá cũng chưa tới một phút, thoắt một cái như vậy, thì có thể xảy ra   chuyện gì kia chứ? 
  
            Tôi vừa đi tới vừa nghĩ mông lung, cảm thấy thật vô cùng khó   hiểu, vừa kịp bước ra khỏi khe sâu chật hẹp. Chỉ thấy trên bầu trời phía   Bắc lóe lên hai quầng sáng trắng mờ ảo, lấp lánh rung rinh. Quầng sáng   kỳ dị viền khít lấy đỉnh núi tuyết sáng bạc, ánh sáng thần thánh tựa hai   vầng nhật nguyệt lồng vào nhau cùng rọi khắp bầu trời. Đây hẳn là ánh   Phật quang nghìn năm mới xuất hiện một lần trên núi ngọc ở Côn Luân chỉ   ai có cơ duyên mới được gặp mà tôi đã từng nghe nói đến từ rất lâu rồi. 
  
            Tôi choáng ngợp trước cảnh tượng thần thánh này, nên tuy không   phải là người theo đạo Phật, cũng muốn lập tức quỳ xuống tham bái. Lúc   những người ở phía sau lục đục lên tới nơi, còn chưa kịp nhìn cho rõ,   thì ánh sáng thần kỳ đã lẩn mất vào màn đêm, thành ra bọn Minh Thúc chỉ   được thoáng thấy một tẹo, cứ đấm ngực giậm chân tiếc rẻ vì không lên   kịp. 
  
            Shirley Dương cũng có thoáng thấy, liền bảo với mọi người chớ   tiếc nuối làm gì, không phải là Phật quang nghìn năm mới xuất hiện một   lần đâu, chỉ là hiện tượng phóng điện đồng bộ xảy ra trong tầng mây, là   do mây dưới núi tuyết quá dày, ban đêm dễ xảy ra hiện tượng đó, chứ Phật   quang nghìn năm mới xuất hiện một lần làm gì gặp dễ dàng như vậy được. 
  
            Nhưng hội anh Xư-chê vẫn đinh ninh đó là ánh Phật quang thần   thánh, cứ hễ trông thấy là được cát tường như ý. Anh Xư-chê bảo chúng   tôi, ở Kelamer rất hay thấy những ánh Phật quang nhỏ thế này, còn đúng   là ánh Phật quang rực rỡ ngàn năm mới xuất hiện thì phải ở núi tuyết   Kawaboge Vân Nam, quê nhà xa xôi của anh mới có. Nghe nói ánh Phật quang   đó từng xuất hiện trong có mấy giây cách đây cả nghìn năm về trước, và   đã được vẽ trong bức Thập tướng tự tại đồ 1 còn lưu truyền đến giờ. Có vị Phật sống đã tiên đoán rằng, hiện tượng   này sẽ xuất hiện trong mười năm sắp tới đây, khi ấy sẽ rất đông tín đồ   chẳng quản vạn dặm xa xôi nườm nượp tìm tới chân núi chầu bái. 
  
            Riêng đám cửu vạn, vừa nãy được sụp lạy Phâth quang, giờ đều tỏ   ra phấn khích, hoan hỉ hết sức, tíu tít chạy đi dồn bò ngựa, kiểm lại   trang thiết bị, may cũng không tổn thất mấy, xong xuôi cả đoàn lại đi   tiếp. Đến lúc trời sáng thì tìm được một chỗ tương đối bằng phẳng ở sườn   núi để dựng trại, nghỉ ngơi một ngày một đêm cho hồi phục tinh thần khí   lực, chuẩn bị tiến vào sông băng Thần loa câu. 
  
            Lũ sói dữ kia mãi chẳng thấy tăm hơi đâu, những e là vẫn lảng   vảng theo dõi, cho nên chúng tôi một giây cũng không được lơi là khinh   suất, nhất là khi đang sắp sửa tiến vào một nơi nguy hiểm và thần bí bội   phần, Thần loa câu. Sông băng cổ trong Thần loa câu có độ cao tương đối   không lớn so với mực nước biển độc nhất vô nhị trên thế giới, nơi thấp   nhất chỉ có hai nghìn tám trăm mét. Dòng sông băng len lỏi giữa hai ngọn   núi tuyết lớn, khu vực hạ lưu ăn sâu chừng vài cây số vào vùng rừng   nguyên sinh rậm rạp, cây cối cao chọc trời, kỳ hoa dị thảo nhiều vô số   kể, có thể nói là cả một nguồn tài nguyên động thực vật phong phúc của   dải núi cao hàn đới. 
  
            Tiến vào khu rừng rập ở Thần loa câu thì tình trạng thiếu ô xy   trên cao nguyên không là chuyện phải lo, những cũng không vì thế hết khó   khăn. Nơi nay căn bản không có đường đi, bò Yak và ngựa không theo sông   băng đi xuống được, lại còn có đoạn phải vượt qua một dốc băng lớn nữa. 
  
            Xem ra chỉ có cách dựng trại ở đây, dự tính ban đầu chỉ để hai   tay cửu vạn ở lại trông nom, những người còn lại vác vật dụng tiến vào   sông băng, nhưng do vẫn còn mối lo bị sói dữ tấn công, nên đành tăng số   người ở lại trông coi lên, bằng không sẽ chẳng có cách nào bảo vệ được   lều trại và bò ngựa. 
  
            Tôi cũng không định để hội anh Xư-chê vào núi, vì trước mắt còn   chưa biết sẽ đối mặt với những nguy hiểm gì, quả thực không muốn liên   lụy đến người khác. Nhưng sau khi được chiêm ngưỡng ánh Phật quang, đức   tin càng được củng cố, anh ta cứ nhất mực muốn đi theo giúp sức, cho   rằng khai quật lầu ma của Ma quốc là một việc tích góp công đức, nếu như   thành công, thì thôi không định đưa thằng út ở nhà vào chùa làm lạt ma   tu hành nữa. Chúng tôi bàn bạc hồi lâu, cuối cùng đành bảo năm người cửu   vạn ở lại trông nom bò ngựa. Bọn họ ai cũng có súng săn, và đều là   những tay bắn sói cừ khôi. Ngoài ra chúng tôi còn để lại cho họ thêm một   ít kíp thuốc nổ. 
  
            Tám người còn lại lập thành một đội, mặc quần áo lặn ở trong,   khoác áo leo núi ra ngoài, đội mũ léo núi, phân chia vũ khí đạn dược.   Hai cây súng trường thể thao giao cho Tuyền béo và Shirley Dương. Tôi và   Peter Hoàng dùng súng Remington, anh Xư-chê dùng súng săn. Ngoại trừ A   Hương, mỗi người còn nhận một khẩu M1911, đeo thêm các thiết bị thiết   yếu, sửa soạn xong là xuất phát ngay. 
  
            Cửa sông băng Thần loa câu, người bản địa gọi là dốc băng lớn,   lúc xuống thì rất dễ, chủ yếu là những đoạn dốc khoảng bốn mươi đến sáu   mươi độ, cứ bám dây thừng, như đứng trên cầu trượt trượt xuống là được,   có điều quay lên e là sẽ tốn không ít sức lực. 
  
            Anh Xư-chê đưa chúng tôi đến chỗ xuống dốc dễ nhất. Dốc băng   lớn trông thoai thoải phẳng lì, nhưng bên dưới có rất nhiều kẽ và hố, vô   ý xui xẻo giẫm vỡ lớp băng mỏng ở bề mặt rơi xuống là chết toi. Chỉ có   một vùng nhỏ hẹp mà năm xưa an Xư-chê theo các nhà sư vào Thần loa câu   hái thuốc phát hiện ra là tương đối an toàn. 
  
            Chúng tôi thả ba sợi dây cáp dài xuống dốc băng. Anh Xư-chê dẫn   đầu trượt xuống, mọi người lần lượt theo sau, rất nhanh chóng xuống   được Thần loa câu bên dưới dốc băng một cách thuận lợi. 
  
            Tôi giương ống nhòm quan sát xung quanh, chỉ thấy núi rừng bạt   ngàn, mênh mông vô tận. Dải sông băng này chắc chuộc loại hình phức hợp,   gồm dòng chính là một sông băng cổ, cộng thêm các dòng mới hình thành   về sau do tuyết lở ở những thời kỳ khác nhau. Toàn bộ dải sông băng có   rừng rậm bao bọc, phân cách, hang băng, rãnh băng, khe băng cho đến thác   băng ở đây nhiều vô số kể, trong khoảng rừng có độ cao so với mực nước   biển thấp hơn nữa, băng tan chảy thành suối, có trời mới biết tháp ma   được chôn ở đâu. 
  
            Tuy không phải khắp nơi đều dễ có tuyết lở nguy hiểm, nhưng dù   sao cũng không thể gây tiếng động quá lớn, làm kinh động sơn thần trên   núi tuyết, anh Xư-chê nhắc mọi người nên khóa hết chốt an toàn của vũ   khí, tuyệt tối không ai được phép nổ súng, nếu có thú rừng tấn công,   chúng ta sẽ dùng vũ khí lạnh mà đối phó. 
  
            Chúng tôi theo sông băng tiến vào rừng, vừa đi vừa quan sát địa   hình. Mãi một vài trăm năm về trước, Luân Hồi tông còn thường xuyên   phái người tới đây cử hành tế lễ, có lẽ vẫn còn dấu tích. Theo cuốn kinh   mật truyền của Luân Hồi tông, điểm tế lễ có lẽ nằm ở nơi có bốn ngọn   núi tuyết chầu quanh, chính là Phượng hoàng thần cung mà phong thủy Mật   tông nhắc đến. 
  
            Chúng tôi đi trong rừng đã được hai hôm, hôm nay vẫn cứ thế đi   tiếp. Dọc đường anh Xư-chê kể cho mọi người nghe truyền thuyết về Thần   loa câu, và những chuyện anh gặp phải năm xưa khi tới đây hái thuốc.   Theo truyền thuyết của nhà Phật, thuở xưa nơi đây vốn là một vũng biển   ăn sâu vào đất liền, dưới đáy có con ốc khổng lồ thành tinh, có phép   thần thông, khiến bao sinh linh phải chịu cảnh lầm than, mãi đến khi   Phật tổ dùng Phật pháp đội đáy biển thành núi cao, mới có thể hàng phục   được nó. Con yêu tinh ốc biển bằng lòng quy y cửa Phật, cuối cùng trở   thành một vị hộ pháp thần, cái bỏ trút lại của nó chính là sông băng   Thần loa câu này. 
  
            Truyền thuyết này không được ghi chép trong bất kỳ kinh thư   nào, có thể chỉ chuyện bịa đặt của cổ nhân, nhưng tính chất rất giống   các truyền thuyết Phật giáo khác. Đạo Phật là một tôn giáo bao dung   nhất, bất kể là yêu nghiệt ác ma gì, chỉ cần buông lưỡi dao sát sinh,   lập tức có thể thành Phật, cho nên các truyền thuyết trong kinh Phật kể   rất nhiều chuyện thu nạp ma quỷ làm hộ pháp thần. 
  
            Vẫn đang chuyện trò, thì trước mặt xuất hiện một thác băng lớn,   anh Xư-chê làm hiệu bảo dừng lại, chỉ tay nói: "Cái mỏm băng phía   trước, nằm dưới chân thác kia kìa, mười mấy năm trước tôi đứng ở đó   trông lên đã phát hiện ra một cây linh chi trân châu có tám mươi tám vị,   bèn cố trèo thác băng để hái, nhưng địa hình nơi đây hiểm trở, chẳng   những không ngắt được cây linh chi,, còn suýt bị ngã chết đấy. Nơi có   bốn ngọn núi tuyết chầu quanh mà mọi người muốn tìm, chính là ở trước   mặt đó. Hồi tôi lên hái thuốc đã nhìn tận mắt, xung quanh vừa khéo có   bốn ngọn núi tuyết khổng lồ. Núi tuyết ở Kelamer rất nhiều, đằng Đông   đằng Tây nhìn đâu cũng thấy, nhưng liền kề với nhau thì không dễ kiếm ra   đâu, cứ như tôi đã thấy đã biết, thì chỉ có chỗ này là có địa hình như   thế thôi. Có điều năm xưa tôi cũng chưa dám vào thung lũng, vì truyền   thuyết kể đấy chính là nơi ở giữa biển tai họa, mấy người chúng ta muốn   tiến vào cần phải hết sức thận trọng mới được." 
  
            Tôi cũng nhìn ra khí tượng nơi đây quả không tầm thường, riêng   lớp tuyết tích tụ đến hơn ngàn vạn tấn trên kia đã khiến người ta cảm   thấy ớn lạnh. May mà dải rừng kẹp giữa hai dòng sông băng rất rộng, chỉ   cần vòng qua thác băng, đi theo đường rừng, không xảy ra chuyện gì bất   trắc phải gây kinh động thì chắc sẽ không gặp tuyết lở. 
  
            Đi hết khu rừng là một dải sông băng uốn lượn, dốc dần lên cao,   xem ra mấy nghìn mấy vạn năm trước chỗ này không phải chốn núi cao hồ   băng gì, mà là một thung lũng lớn. Vùng đất quả nhiên có bốn ngọn núi   tuyết cao ngất vây quanh, làm thành một dải trập trùng, chính là Long   đỉnh nằm trên sông lưng của trời đất, tháp ma thờ cúng Tà thần rất có   khả năng đã đóng băng ở lòng sông. 
  
            Mọi người thấy cuối cùng cũng có manh mối, tinh thần phấn chấn   hẳn, hăm hở bước nhanh, muốn tranh thủ tìm thấy lầu ma chín tầng trước   khi trời tối. Mặt sông bằng trơn dị thường, giống y một tấm gương. Peter   Hoàng từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ chỉ ở phương Nam, chưa bén mảng đến   nơi băng tuyết như thế này bao giờ, cứ hễ đi nhanh tí tẹo là lại ngã   phệt xuống, sợ là sắp nứt xương cụt đến nơi, miễn cưỡng nhờ Tuyền béo và   anh Xư-chê dìu đi. 
  
            Cả đoàn vẫn đang tiến lên, bỗng tôi điểm quân số thấy thiếu mật   Hàn Thục Na, ở đây khe băng, hố băng, hang băng nhan nhản, nếu quả thực   rơi xuống đó thì phiền phức lắm. Rơi xuống hang băng còn có thể cứu,   chứ lọt vào khe băng thì không cách nào leo lên được, mà trên băng không   có vết chân, theo dấu lần lại đường cũ vô cùng khó. Ở bên dưới mấy ngọn   núi tuyết, càng không dám gọi to tên chị ta, cho dù là A Hương cũng   không có khả năng nhìn xuyên qua băng được. 
  
            Mọi người đành bảo Peter Hoàng đứng yên tại chỗ để ý xem sao,   còn tất cả tản ra, theo hướng cũ quay lại kiểm tra, ngoặt đi ngoặt lại   hai lần mới phát hiện ra một hố băng bị giẫm vỡ, bên dưới là hang băng   hình cái đấu (chỉ khe băng kẹp dưới sông băng, hình như cái đấu).   Tôi dùng đèn pin mắt sói chiếu vào, thấy hang băng sâu chừng bảy tám   mét, Hàn Thục Na nằm phía dưới, hôn mê bất tỉnh. Chúng tôi khẽ tiếng gọi   tên chị ta, nhưng không thấy có phản ứng gì. 
  
            Không ai biết chị ta đi đứng thế nào mà lại rẽ vào chỗ này,   Minh Thúc thấy vợ ngã xuống hang, sống chết còn chưa biết thế nào, cứ   bấn loạn hết cả lên. Tôi trấn an lão, bảo chớ lo lắng, chỗ này không   sâu, trên người Hàn Thục Na có đồ bảo hộ, cùng lắm là ngất đi do quá sợ   hãi, để từ từ kéo chị ta lên, đâu rồi khắc vào đó. 
  
            Tôi soạn dây thừng chuẩn bị đu xuống, Shirley Dương ném một cây   pháo sáng cho tôi nhìn rõ địa hình, tránh giẫm vỡ kẽ băng thông với hố   này. Không ngờ cây pháo sáng vừa bùng lên giữa ba bề bốn bên quanh vách   băng, tất cả nhìn xuống, cùng thốt lên một tiếng "ối trời". Hóa ra, vách   băng có không biết bao nhiêu người mặc cổ phục chết cứng trong đó, cùng   một tư thế cúi đầu, đứng thành vòng tròn vây quanh, nom như vẫn còn   sống sờ sờ, lẳng lặng nhìn Hàn Thục Na hôn mê bất tỉnh. 
  
            Thứ chúng tôi có thể thấy được, chỉ nằm ở lớp băng ngoài cùng, sâu bên trong không biết còn có bao nhiêu thây ma đông cứng nữa.
| 1 | Nguyên chú: theo giáo lý của Phật giáo Tây Tạng, Thập tượng tự tại đồ là một dạng bức vẽ có sức mạnh cực kỳ thần bí, được cấu thành bởi bảy chữ Phạn và mặt trăng, mặt trời cũng với mười loại ký hiệu hình tròn... Năm sắc màu trong bức họa tượng trưng cho năm nguyên tố cơ bản trong vũ trụ: đất, nước, gió, lửa, không khí; mười ký hiệu kia lại tượng trung cho các bộ phận của cơ thể người và các bộ phận của thế giới vật chất; tất cả năm trong một hệ thống quan hệ biện chứng hết sức phức tạp. | 
 
  
 
 truyen sexhack game avatarzip full wap sachhinh sex depsms kutedaivietpda.comquyetdaik
truyen sexhack game avatarzip full wap sachhinh sex depsms kutedaivietpda.comquyetdaik 
 
 
  
    
