Tôi vừa đi vừa kể sơ lược tình hình trong lò mổ cho   Shirley Dương. Cô cho rằng tòa thành này không chỉ đơn giản là mất tích ở   ngoài quỹ đạo thời gian, ví như thịt bò hầm chín trong nồi kia, quả   thực vừa nhừ vừa ngon, ăn cho bằng hết, nó cũng không xuất hiện lại lần   nữa, tất cả mọi thứ trong thành đều bị ngưng đọng ở một khoảnh khắc nào   đó, nếu không chịu ảnh hưởng của ngoại lực thì sẽ vĩnh viễn không xảy ra   bất kỳ sự biến đổi nào. Ngoài ra còn có một điểm rất dễ bỏ sót, mọi sự   vật trong Ác La Hải hoàn toàn không chỉ trong trạng thái bất động, chỉ   có thể nói rằng nó vĩnh viễn bảo lưu một hình thái đặc biệt, chứ không   phải do thời gian ngưng chảy, cho nên tạm thời phải phủ định giả thiết   về sự hỗn loạn của thời gian và không gian ở đây. Để cho tiện gọi tên,   tạm thời ta hãy gọi khoảng khắc tựa như vĩnh hằng ở thành Ác La Hải này   là "tuyến X", "X" là một ẩn số chưa biết. 
            
Muốn giải bài toán "tuyến X", nhất định phải làm rõ xem vào   khoảnh khắc cuối cùng ở thành Ác La Hải đã xảy ra chuyện gì. Muốn vậy có   lẽ phải đợi sau khi trời sáng, thì mới có thể tìm thấy được chân tướng   sự việc ở sâu bên trong nó. Những việc kỳ quái trong thành khiến đầu tôi   quay như chong chóng, nhưng nghe Shirley Dương phân tích, thấy tư duy   của cô hết sức mạch lạc, thôi thì ở đời người giỏi hơn người là chuyện   thường, có điều ở đời này hình như tôi có tố chất làm lãnh đạo, ấy thế   nên cũng chẳng cần đến một cái đầu như của nhân viên tham mưu làm gì. 
Chúng tôi từ vòng ngoài tường thành leo trở lên dải nham thạch   xanh lục ven hồ, quay đầu lại nhìn thành Ác La Hải trong đêm. Tòa thành   im lìm nằm lún dưới đất, đèn vẫn thắp lấp lánh, ánh sáng vẫn chập choạng   như buổi hoàng hôn, xem ra đến sáng sớm mai, thì chắc vẫn vậy mà thôi. 
Chạy đi chạy lại một hồi, Minh Thúc và A Hương đều đã mệt rã   rời. Trong rừng lại có giao long ra vào, chúng tôi không dám xuống dưới   đó, đành phải tìm lấy một chỗ kín gió trên dải nham thạch nghỉ ngơi,   chuẩn bị để sớm mai sẽ tiến vào thành tìm hiểu chân tướng sự việc. 
Đêm đó, mọi người thay phiên nhau trực. Ngày hôm sau, trời vừa   sáng, tôi phát hiện Shirley Dương đã dậy từ lâu, đang chăm chú lật giở   tấm bản đồ Kinh Thánh chúng tôi phát hiện được ở miếu Luân Hồi. Tầng mây   trên đỉnh đầu, rất dày, ánh nắng len qua kẽ mây rọi xuống không đủ   sáng, cả vùng rừng vây bọc giữa những dãy núi cheo leo hiểm trở vẫn hết   sức tối tăm, thành Ác La Hải nằm dưới chân dải nham thạch tựa như tách   biệt hẳn với thế giới, vẫn y nguyên như vậy, ánh đèn lấp lánh, im ắng   đến kỳ lạ, toàn bộ dựng lại trên "tuyến X". 
Shirley Dương bảo rằng cô có dự cảm, nếu như hôm nay không tìm   ra bí mật của "tuyến X", e rằng mọi người sẽ vĩnh viễn không rời khỏi   sơn cốc đằng sau Cánh cửa tai họa này, nơi đây đã là chốn cùng đường   tuyệt lộ rồi. 
Tấm bản đồ trong tay Shirley Dương rách tơi rách tả, cha sứ Bồ   Đào Nha trộm biết được điều cơ mật của Luân Hồi tông định bụng đi khai   quật kho báu, kế hoạch còn chưa thực hiện được thì đã bị giết chết trong   xung đột tôn giáo rồi. Chúng tôi mãi cũng không sao phân biệt nổi được   địa hình vẽ trong bản đồ rốt cuộc là "vùng đất chim đại bàng" hay là   "Phượng Hoàng thần cung". Tôi bèn hỏi Shirley Dương, có phát hiện gì mới   không?
Shirley Dương đáp: "Đem so với địa hình quanh đây, có thể   đoán rằng bản đồ trong Kinh Thánh chính là bản đồ Thần cung Phượng Hoàng   - thành Ác La Hải, có điều cố gắng hết sức cũng chỉ phục nguyên được   chưa tới ba mươi phần trăm, chắp vá chỗ này một miếng, chỗ kia một   miếng, chẳng liền mạch nhau... Tuy nhiên nếu thời gian cho phép, tôi có   thể căn cứ theo tình hình nơi đây, bổ sung thêm những phần thiếu khuyết,   hoàn chỉnh lại nó." 
Nếu như có tấm bản đồ thành cổ, dù chỉ là một góc để tham   chiếu, thì cũng đã là một sự giúp ích quá lớn đối với chúng tôi rồi. Tôi   liền lấy lại tinh thần, rồi gọi Tuyền béo, Minh Thúc, A Hương từng   người dậy, chia số thức ăn còn lại không lấy gì làm nhiều nhặn cho mọi   người, coi như bữa sáng. Ăn xong bữa này, sẽ không còn chút lương thực   dự trữ nào nữa, nêu như không xuống hồ bắt cá, thì chỉ còn cách vào   thành ăn thịt bò mà thôi. 
Khi tiến vào thành lần hai, Minh Thúc bàn với tôi, hay là không   vào thành nữa, chi bằng trèo đèo lội suối tìm lối thoát thân còn hơn,   tòa thành cổ quái như vậy, hà tất phải mạo hiểm tấm thân vàng ngọc. Tôi   giả vờ không nghe, bụng nghĩ tôi, Tuyền béo và Shirley Dương vì muốn tìm   cho ra căn nguyên của mật Phượng hoàng nên mới cố gắng vất vả như thế,   khó khăn lắm mới tìm được tới đây, sao dễ dàng bỏ qua được, có chết chết   ở sa trường, không thèm chết trên đường tháo thân. Tôi liền lập tức rảo   bước, tranh lên trước tiến vào thành. 
Ngoài những thứ bị chúng tôi đụng chạm vào, những thứ khác ở   đây không hề suy suyển, ngay cả làn sương mỏng mờ trong thành cũng không   có gì thay đổi gì, Tuyền béo liền lao ngay vào lò mổ, cắt mấy miếng   thịt bò "tươi mới" thật lớn để dự trữ. Đêm qua vốn định đợi đến lúc trời   sáng, nhìn cho rõ kết cấu của tổ ong sừng sững kia đã rồi mới vào trong   tìm hiểu cho cặn kẽ, nhưng trong thành trời vẫn chạng vạng như vậy,   ngước đầu nhìn lên, đèn đuốc trong tòa thành chủ giống như hàng trăm   ngàn con đom đóm lặng lẽ bám lên tổ ong. Tổ ong chỉ lộ ra nửa trên, còn   phần lớn phía dưới thì bị vùi sâu trong đất. Theo cách nhìn nhận về giá   trị của người Ma quốc thì cơ quan quyền lực trọng yếu đều phải xây ở   dưới đất, cho nên chúng tôi đi quanh chân thành, tìm một dộng huyệt lớn   nhất theo đó tiến vào tổ ong. Bên trong động huyệt chằng chịt, kết cấu   phức tạp, giống hệt như tổ ong, mọi người không khỏi nghi ngờ không rõ   cư dân sống trong đây là người hay sâu bọ. 
Nhớ hồi khoảng cuối những năm sáu mươi đầu bảy mươi, nhân dân   cả nước tiến hành đào hố sâu, tích trữ lương thực số lượng lớn, loại   kiến trúc phòng bị ấy tôi cũng 
đã đào rồi, song so với đào thành Ác   La Hải này, thật chẳng khác nào múa rìu qua mắt thợ. Có rất nhiều động   huyệt hình thành một cách tự nhiên, còn nếu chỉ dựa vào sức
người và máy móc, thật khó tưởng tượng ra nổi người xưa có thể tạo ra loại công
trình này. 
Chúng tôi tìm tới một con đường lớn thông thẳng xuống đất,   thông đạo này và hang hốc ở hai bên đều có đèn đuốc chiếu sáng. Cứ đi về   phía trước một quãng, Shirley Dương lại lấy bút ghi lại địa hình lên   giấy, tốc độ vẽ phác của cô nàng cực nhanh, cứ vừa đi vừa vẽ, không hề   tốn chút thời gian nào, vẽ ra một bản đồ tuyến đường giản đơn mà có tác   dụng thiết thực. Tôi chốc chốc lại dùng đèn pin mắt sói soi vào các nhà   hang ở hai bên, phần lớn đều không có đèn và trống trơn, trong một số   hang, ở những chỗ ẩm thấp còn nhung nhúc gián to hơn con chuột túm tụm   lại với nhau, lấy báng súng đập chúng cũng không chết, càng đi sâu xuống   phía dưới, số lượng nhà hang càng giảm, nhưng diện tích càng rộng thêm. 
Dưới cùng tòa thành tổ ong là hai cánh cửa đá lớn khép hờ, hai   bên tả hữu của thông đạo là hai cửa hang, trên cửa hang lần lượt găm hai   khối bảo thạch một xanh một trắng, dùng đèn pin soi vào bên trong, thì   thấy hang bên trái rộng chừng mấy mươi mét vuông, vòm rất cao, trong sâu   có một bức tượng đầu quỷ mặt mũi xấu xí gớm ghiếc, dưới cổ khắc một   hàng bọ thất tinh, bốn góc hang thắp đèn mỡ bò, ánh sáng yếu ớt, ở giữa   đặt tế phẩm là một con bò đen, một con ngựa trắng luộc, mọi thứ trong   hang bên kia đại loại cũng như thế. 
Shirley Dương giở tấm bản đồ cổ ra, một mảnh có vẽ hai địa điểm   là "băng cung" và "hỏa cung", hoàn toàn khớp với nơi này, nhưng chỗ   đáng lẽ ra phải đánh dấu là bên trong cánh cửa đá lớn ở tận cùng thông   đạo lại đã bị tổn hoaị, chỉ nhìn được vài hình vẽ từa tựa xương động vật   ở viền chỗ rách trên bản đồ. Còn nhớ trong Hắc hổ huyền đàn của Luân   Hồi tông, tầng dưới cùng khối đá thủy tinh cũng có hình vẽ tương tự vậy,   liệu những xương cốt này có liên quan gì đến sự mất tích của cư dân   thành Ác La Hải không? Tôi đẩy cánh cửa đá ở tận cùng thông đạo ra một   cách đầy hồ nghi. Vừa bước vào liền lập tức cảm thấy lạnh buốt đến tận   tim phổi, nghĩ bụng trong này tà khí nặng quá,vừa ẩm vừa lạnh, hoàn toàn   khác với mấy tầng trên. Trước mắt tôi là một gian thần điện dát vàng   nạm ngọc, tuy có nhiều đèn đuốc, nhưng lại hết sức tối tăm, điện đường   sâu hun hút, thành thử không nhìn rõ được bên trong như thế nào.
Lúc   này Shirley Dương và Tuyền béo cũng tiến vào theo. Tôi đang định tiếp   tục tiến lên, thì phát hiện ra Minh Thúc và A Hương đứng ở bên ngoài   không chịu vào. Tôi liền gọi bọn họ: "Vào đi thôi! Còn đứng đấy chờ cái   gì?" 
            
            A Hương nấp sau lưng Minh Thúc khẽ thì thầm gì đó vào tai lão,   nghe xong, vẻ mặt lão hoảng loạn vô cùng. Tôi thấy lạ, bèn quay lại hỏi   xem họ định giở trò gì. Minh Thúc đột nhiên rút súng lục ra chĩa vào   tôi: "Đứng yên, cấm quay lại, quay lại tôi bắn đấy! Có ... có thứ gì bám   trên lưng chú". 
  
            Tôi dùng chân, đứng cách bố con Minh Thúc độ bảy tám bước chân,   đối diện với nòng súng của Minh Thúc. Tôi hiểu rồi, chắc chắn A Hương   nói là tôi bị thứ gì đó ám vào người, tôi với em này không thù không   oán, em không thể nào ám hại tôi được, Lẽ nào vì tôi không đồng ý lấy   em? Tuy nhiên A Hương dường như rất tốt bụng, chắc không đến nỗi hãm hại   tôi như thế, nhưng mà cũng mấy ai đoán đúng suy nghĩ của đàn bà đâu.   Đầu óc tôi bắt đầu rối loạn, nhưng rồi đột nhiên nghĩ, chẳng lẽ trên   người tôi quả thực có thứ gì đó? Sao tôi không cảm nhận thấy nhỉ? 
  
            Tôi lập tức tụng ra một đoạn trong Mao tuyển: "Tác phong luôn   gắn lý luận với thực tiễn, là tác phong có mối quan hệ chặt chẽ với quần   chúng nhân dân, và là tác phong tự phê bình." Chẳng làm sao cả, mình   vẫn là mình, yên tâm đi. 
  
            Minh Thúc lại nói với tôi: "Chú Nhất ạ! Giao tình giữa chú và   anh không bạc, anh thấy chú tiền đồ rộng mở, cho nên mới có ý hứa gả A   Hương cho chú. Nhưng mà bây giờ thì chú quả thực có vấn đề đấy. A Hương   không nhìn nhầm đâu." 
  
            Thành Ác La Hải này vượt xa so với điều thường thức và những gì   con người ta có thể tưởng tượng ra được, việc gì cũng có thể xảy ra, vả   lại tôi biết, sau khi vợ, thằng vệ sĩ cho đến thằng lái xe của Minh   Thúc chết, lão thành ra con chim sợ cành cong, vì sự an toàn của bản   thân mình, chắc chắn lão dám nổ súng. 
  
            Có điều khi lão giơ súng lên, Tuyền béo và Shirley Dương đứng   sau tôi cũng giơ hai khẩu súng trường thể thao lên nhằm thẳng vào đầu   lão. Tôi huơ tay về phía sau, bảo họ bình tĩnh, nếu một bên không nhẫn   nhịn được mà nổ súng trước, bất kể là ai đổ máu ở đây, thì đều là việc   huynh đệ tương tàn đáng sợ nhất. 
  
            Minh Thúc vừa nãy quả thực đã quá mức căng thẳng, lúc này cái   đầu được mệnh danh là "Tiểu Gia Cát" của lão dần hồi phục, đương nhiên   đã thấy rõ thế cục, chỉ cần lão chỉ hơi có động tác gì lệch lạc, Tuyền   béo và Shirley Dương chắc chắn sẽ không chần chừ gì mà tặng cho đàu lão   hai cái lỗ đạn. Lão muốn rút súng về, nhưng lại cảm thấy hơi cấn cá,   định nói lảng đi, lắp ba lắp bắp nói chẳng ra hơi, mãi lâu sau mới giải   thích rút súng ra là định bắn cái thứ trên lưng tôi. Chứ trên đời này   làm gì có chuyện bố vợ bắn con rể. 
  
            Nòng súng của Tuyền béo và Shirley Dương đã khiến tuyến phòng   ngự tâm lý của lão tan rã, có cho ăn gan hùm, gan báo, cũng không dám   nổi súng. Thế rồi tôi trực tiếp hỏi A Hương rốt cuộc có chuyện gì, rốt   cuộc nhìn thấy trên lưng tôi có thứ gì? 
  
            A Hương nói: "Anh Nhất ơi, em sợ lắm, vừa nãy quả thực em nhìn   thấy trên lưng anh có thứ gì đó màu đen, nhưng không rõ là thứ gì, hình   như là một vòng xoáy màu đen". 
  
  "Vòng xoáy màu đen?" Lẽ nào lời nguyền trên lưng tôi đã bắt đầu   chuyển biến? Nhưng vì sao A Hương lại không thấy thứ ấy trên lưng của   Shirley Dương và Tuyền béo? Tôi vội chỉ tay vào sau cổ mình hỏi A Hương:   "Ở đây á?" 
  
            A Hương lắc đầu: "Không phải, ở trong ba lô của anh cơ... giờ vẫn còn anh ạ!" 
  
            Tôi vội dỡ ba lô sau lưng xuống, phát hiện hai lớp khóa đã mở   ra, hình như trong thông đạo, Tuyền béo có móc thám âm trảo trong ba lô   của tôi ra, định dò xem phía sau cửa đá có cơ quan cạm bẫy gì không,   quên chưa kéo khóa lại. Mắt của A Hương chỉ có thể nhìn thấy những chỗ   không bị che khuất, dù là không nhìn thẳng hay không có ánh sáng. Nhưng   mà trong ba lô của tôi thì có thể có gì được kia chứ? 
  
            Tôi đổ toàn bộ đồ đạc ra A Hương chỉ vào một vật rồi nói: "Chính nó..." 
  
            Lúc này Shirley Dương cũng bước tới nhìn: "Mật Phượng hoàng?'   Viên ngọc này vốn dĩ gắn liền với đầu lâu của Hiến Vương thành một khối,   sau đó được chúng tôi đem về Bắc Kinh, đã qua bàn tay bóc tách khéo léo   của người thợ mà vẫn khó phục nguyên được hình dạng cũ. Lúc này nhìn   lại thì phát hiện lớp ngọc thạch phủ bên ngoài đang dần dần tan rã, lộ   ra viên ngọc bên trong, bản thân nó vốn đã có một năng lượng thu hút khí   hỗn độn, thứ A Hương nhìn thấy có lẽ là vật này. 
  
            Xem ra mật Phượng Hoàng chắc chắn co chịu ảnh hưởng nào đó   trong tòa thành cổ thần bí này, e là liên quan tới "tuyến X" khiến thời   gian ngưng lạ kia. Có viên ngọc này trong tay, có lẽ chúng tôi sẽ có   chìa khóa mở ra cánh cửa đã khép lại vô số những điều bí mật cổ xưa. 
  
            Tuyền béo thấy chúng tôi không có điều gì bất trắc, liền thừa   cơ chạy tới giải trừ vũ khí của Minh Thúc, tiện tay tước luôn chiếc đồng   hồ vàng Thụy Sĩ và viên ngọc nhuận phế của lão. Minh Thúc lần này coi   như nằm trong tay Tuyền béo, không dám ho he nửa lời. 
  
            Tôi và Shirley Dương quan sát mật Phượng hoàng một lượt. Rồi   tôi gói viên ngọc lại cẩn thận, giải thích qua với Minh Thúc và A Hương,   đại loại đây là một vụ hiểu lầm, trong thành Ác La Hải này đến một bóng   ma còn chẳng có, chớ lo lắng làm gì, nếu vẫn không yên tâm, định chia   đội, thì xin cứ thự nhiên, ai cũng có chân cả, không ai ngăn cản ai hết. 
  
            Sau đó chúng tôi cùng tiến vào đại điện phía sau cửa đá, trên   mỗi cây trụ đá đều có đèn, mấy trăm tấm da người bị căng ra dán kín   tường. Trước đây, những bích họa chúng tôi từng thấy đều vẽ trên tường,   hoặc trên đá gạch, còn ở nơi đây, những sự kiện quan trọng trong thành   đều được dùng bốn màu đỏ, trắng, đen, xanh xăm trên da người. Đây cũng   chính là những hình vẽ có nội dung duy nhất chúng tôi thấy trong thành   Ác La Hải. 
  
            Trong điện còn có một số đồ tế cỡ lớn, sâu cuối điện là một số   tượng nữ khỏa thân. Shirley Dương chỉ nhìn qua một lượt rồi nói: "Thông   tin ghi chép trên những tấm da người này hết sức quan trọng. Tuy không   thể hiểu hết những ký hiệu này, nhưng nếu kết hợp những sự kiện trọng   đại của Ma quốc ghi chép trong điện với phần nội dung liên quan tới cuộc   chiến với Ma quốc trong trường thi Thế giới Chê địch Bảo châu Hùng sư   Đại vương, chúng ta có thể hiểu được giai đoạn lịch sử cổ xưa ít người   biết đến kia, đồng thời cũng có thể giải được phần lớn bài toán khó   chúng ta đang vướng mắc." 
  
            Lượng thông tin chúng tôi nắm được tuy không ít, nhưng cho đến   giờ bất quá cũng chỉ vài mảnh vụn vặt khó lắp ghép, chỉ Shirley Dương   mới có thể tính toán vận dụng, về phương diện này thì tôi cũng chẳng   giúp đỡ gì được nhiều, chỉ có thể giúp cô nàng đưa ra vài chủ ý. 
  
            Thế rồi tôi bảo Minh Thúc và A Hương nghỉ ngơi, Tuyền béo phụ   trách nướng thịt bò cho mọi người ăn đỡ đói, tôi và Shirley Dương ra   phân tích những bức tranh trên da người kia, lần gỡ từng mối một. 
  
            Ác La Hải là tòa thành chính của Ma quốc, có thể chế chính   quyền hoàn toàn khác với các quốc gia khác. Vào thời kỳ thịnh trị nhất,   phạm vi thống trị của Ma quốc bao trùm khắp quanh vùng núi Côn Luân,   không đời nào có vua, mà trực tiếp do chủ thần "di cốt của thần Rắn" mà   quốc gia này thờ cúng thống lĩnh, tất cả các quyết sách trọng đại, đều   do thày cúng trong nước tiến hành tế lễ xuơng của thần Rắn, sau đó xem   bói mà định ra. Thời kỳ xa xưa ấy, xem bói là hoạt động hết sức nghiêm   túc và trọng đại, không thể dễ dàng cử hành, phải cách mấy năm, thậm chí   mười mấy năm mới có một lần. 
  
            Ma quốc không có vua, đây là nguyên nhân khiến trong thành   không có hoàng cung mà chỉ có thần điện. Cái gọi là thành viên hoàng   thất, đều là một số thầy mo nắm quyền phát ngôn, nhưng địa vị của những   người này ở trong nước cũng phải xếp sau vị trí thứ năm. 
  
            Người Ma quốc cho rằng, xương của thần Rắn có vị trí tối cao;   đứng ngay sau Tà thần này là động huyệt mai táng xương cốt của nó; thứ   nữa, là con "Tịnh kiến A Hàm" (Rắn mắt lớn) có cục thịt màu đen trên   đầu. 
  
            Hình ảnh xuất hiện nhiều nhất trong tranh chính là Quỷ mẫu được   thường xuyên nhắc tới trong truyền thuyết Ma quốc. Tôn giáo của Ma quốc   cho rằng, mỗi đời Quỷ mẫu đều là chuyển kiếp tái sinh, và không bao giờ   để lộ mặt mũi, mãi mãi phải che kín, là bởi đôi mắt của các mụ là "Ma   nhãn" có thể đương đầu với "Phật nhãn". Phật nhãn vô biên, Ma nhãn vô   giới, có điều không hẳn dời Quỷ mẫu nào cũng có thể cóđược con mắt yêu   mị này. 
  
            Đứng dưới Quỷ mẫu mới là mấy thầy chủ tế nắm được một vài tà   thuật, đại khái là hình thái nguyên thủy của trùng thuật. Đương nhiên   trùng thuật thời ấy, còn xa mới tạp như ở thời kỳ Hiến Vương, không thể   hại người cũng như trở nên vô hình, chủ yếu là dùng trong những cuộc   cúng tế trọng đại. 
  
            Phong tục chôn cất của người Ma quốc cũng rất đặc biệt, chỉ có   thầy chủ tế trở lên mới có tư cách được chôn vào lầu ma chín tầng. Phần   mộ cổ Ma quốc tôi thấy trong di tích chùa Đại Phượng hoàng ở núi Côn   Luân chắc là một huyệt mộ mai táng Quỷ mẫu đầu tiên được coi là con gái   của Tà thần "Niệm hung hắc nhan" đã được táng trong tháp ma ở sông băng   Long đỉnh. Tên gọi này được nhắc đến nhiều lần trong truyền thuyết về   Cách Tát Nhĩ Vương. 
  
            Trong một số trường cảnh miêu tả chiến tranh, thậm chí còn có   thể thấy sự tham gia của những bầy dã thú như sói, trong đó con sói   trắng, có lẽ chính là Thủy tinh tự tại sơn, tuy nhiên địa vị của vua sói   trắng và bọ ma tá phủ rất thấp, chỉ tương đương với yêu nô mà thôi.   Những truyền thuyết cổ xưa được lưu truyền từ thời kỳ đó về cơ bản đều   khoa trương và thần thánh hóa các đặc điểm của bộ lạc, muông thú, phong   cho chúng thành thần linh của núi sông ao hồ, không khác gì tuyền thuyết   trước thời Hạ, Thương ở Trung Quốc. 
  
            Trong tuyền thuyết về Cách Tát Nhĩ Vương có đoạn kể rằng, do   "yêu ma phương Bắc" (Ma quốc) xâm lược, ba nước Lĩnh địa, Nhung địa và   Gia địa từng nhiều lần đối mặt với nguy cơ diệt chủng, cuối cùng trên   cao nguyên xuất hiện một vị Chế địch Bảo châu Đại vương, lại có thêm   Liên Hoa Sinh Đại sư hiệp trợ, thống lĩnh liên quân ba nước, giẫm gót   tiến vào miền tuyết trắng phương Bắc để giết yêu diệt ma, san bằng luôn   Ma quốc. Ma quốc đột nhiên suy yếu, rất có khả năng là do thành Ác La   Hải đã xảy ra một tai họa hủy diệt.Song trên những tấm da người lại   không hề thấy ghi chép về sự việc này. 
  
            Tôi và Shirley Dương đang xem xét, thì Tuyền béo vẫy tay gọi:   "Có manh mối rồi thì lo gì không tìm ra, ăn cơm xong hãy nói tiếp đi." 
  
            Tôi cũng cảm thấy cơn đói bụng đang quặn lên, bèn tạm gác mấy   việc này, chạy ra ăn cơm đã. Ngoảnh nhìn thì vẫn thấy Shirley Dương đang   bần thần ngắm mấy tấm da người cuối cùng, phải gọi mấy lần cô nàng mới   quay ra. 
  
            Nhưng Shirley Dương không tới lấy thịt bò Tuyền béo nướng, mà   đi thẳng ra chỗ A Hương, điệu bộ hờ hững, vừa như vô tình vừa lại cố ý,   lấy tay gạt tóc A Hương ra, nhìn vào sau gáy. Sắc mặt của cô nàng thoáng   đổi, rồi lại đến kiểm tra sau gáy Minh Thúc. Lão ta không biết cô nàng   định làm gì, nhưng cũng đành để yên cho Shirley Dương xem. 
  
            Tôi vừa thấy vẻ mặt Shirley Dương và đôi môi bặm chặt, liên   biết rằng có việc chẳng lành. Trước khi Shirley Dương phán đoán và đưa   ra kết luận về một chuyện hệ trọng, cô nàng đều có cử chỉ quen thuộc   này. Quả nhiên Shirley Dương nói với tôi: "Tôi nghĩ chúng ta bị đôi mắt   của A Hương đánh lừa rồi, tòa thành này quả thực là chân thực, nhưng đây   không phải thành Ác La Hải, mà là Quỷ động không đáy..."
 
  
 
 truyen sexhack game avatarzip full wap sachhinh sex depsms kutedaivietpda.comquyetdaik
truyen sexhack game avatarzip full wap sachhinh sex depsms kutedaivietpda.comquyetdaik 
 
 
  
    
