Thì ra Răng Vàng vừa hay lại quen biết một vị giáo   sư ở Học viện Khảo cổ Bắc Kinh, họ cũng thường xuyên qua lại với nhau,   gần đây xảy ra một chuyện, tình hình cụ thể là thế này. 
            
            Các hoạt động khảo cổ cũng như bảo hộ văn vật bị buộc dừng lại   trong 10 năm Cách mạng Văn hóa, sau cải cách mở cửa, đã được triển khai   trở lại, ba năm gần đây, là thời kì đỉnh cao của ngành khảo cổ, một   lượng lớn mộ cổ và di tích dồn dập xuất hiện. 
            
            Giao dịch, giao lưu trong giới sưu tầm đồ cổ cũng cực kì sôi   nổi, những nhóm trộm mộ lớn nhỏ cũng nghe hơi nồi chõ, cứ thấy nấm đất   là cắm cổ đào bới, nhất là các vùng Thiểm Tây, Hà Nam, Hồ Nam, hơn nữa   càng làm lại càng dữ dội. 
            
            Từ khi quần thể mộ bên bờ sông Tiểu Hà (Lâu Lan) Tân Cương   được phát hiện người ta dường như mới bừng tỉnh ngộ, trong sa mạc Tân   Cương, Con đường Tơ lụa từng vang bóng một thời, ba mươi sáu nước Tây   Vực ven sông Khổng Tước, Hồ Hồ, Lâu Lan, Mễ Lan, Nê Nhã, Luân Đài, Bồ   Loại, Cô Mặc, Tây Dạ,...  những khu lạc viên của người mê mạo hiểm, biết   bao nhiêu của cải và sự phồn hoa đã bị chôn vùi dưới dải cát vàng mênh   mông vời vợi. 
            
            Nhất thời, vô số đoàn thám hiểm, đoàn khảo cổ, cả các nhóm   trộm mộ tranh nhau tiến vào sa mạc Taklimakan tìm kho báu. Đây là cơn   sốt thám hiểm rầm rộ thứ hai sau tiếp theo cơn sốt thám hiểm sa mạc đầu   thế kỉ 19, nhưng đối với đại đa số những nhà thám hiểm non nớt không đủ   kinh nghiệm, vùng sa mạc mênh mông này quả đúng như Folke Bergman, nhà   thám hiểm lớn gốc Thụy Điển, đã viết về nó, là một nơi chỉ có đi mà   không có về. "Tử vong chi hải" - biển tử vong, cái tên này cũng từ đó mà   ra. 
            
            Việc bảo vệ di tích mộ cổ Tân Cương vô cùng cấp bách, nhưng   nhà nước không đủ sức người, sức của để tiến hành khai quật, bảo vệ các   di tích trong sa mạc Taklimakan, hầu hết nhân viên khảo cổ đều đang tập   trung ở Hà Nam gấp rút khai quật những ngôi mộ cổ đã bị trộm viếng hoặc   tổn hại trong quá trình thi công các công trình khác. 
            
            Vị giáo sư mà Răng Vàng quen biết, nghiên cứu văn hóa Tây vực   đã lâu, ông hết sức lo lắng việc mộ cổ Tân Cương bị phá hoại, một mực   làm đơn xin lãnh đạo, mong được tự dẫn một đoàn đi vào sa mạc để làm một   cuộc khảo sát hiện trường, đánh giá các di tích, sau đó sẽ yêu cầu các   cơ quan hữu quan tiến hành khai quật hoặc bảo vệ. 
            
            Cấp trên viện cớ kinh phí không đủ, thoái thác hết bận này đến   bận khác, chứ thực ra kinh phí chỉ là thứ yếu, chủ yếu là vì gần đây có   quá nhiều người gặp chuyện trong sa mạc rồi, chỉ lo mấy người giáo sư   gặp điều gì bất trắc. Chốn quan trường có một quy tắc ngầm, không cầu   lập công, chỉ mong vô tội, không phạm sai lầm chính là lập công lớn,   thăng quan tiến chức chỉ là chuyện sớm muộn mà thôi. 
            
            Cho tới mãi gần đây, một người Mỹ gốc Hoa xuất hiện, tài trợ   toàn bộ kinh phí cho đoàn khảo cổ của giáo sư, cái đoàn đó mới được hình   thành. Trước mắt đoàn thám hiểm khảo cổ này vẫn đang tiến hành chuẩn bị   bước đầu, họ cần tìm một người dẫn đầu đoàn giàu kinh nghiệm sinh tồn   trên sa mạc, ngoài ra còn thiếu một người biết thuật phong thủy chiêm   tinh, vì phần đông đoàn khảo cổ đều là những tay mọt sách, không có   người dẫn đoàn, không có cao nhân biết coi phong thủy chiêm tinh, dựa   vào bọn họ cũng chẳng thể nào tìm được vị trí mộ cổ hay di tích. 
            
            Tìm người như vậy đâu dễ, có một số người đến dự tuyển, quá   nửa là bọn đạo danh lừa gạt, đôi bên nói chuyện là lòi đuôi chuột ra   ngay, thế nên vị giáo sư kia cũng nhờ Răng Vàng giúp tìm cho một người   như thế. 
            
Răng Vàng hỏi tôi có muốn tham gia không, giá người Mỹ kia   trả cũng tương đối cao, đồng thời còn có thể đi vào sa mạc xem xem, rốt   cuộc có mồ mả gì lớn hay không, coi như là đi thăm dò địa bàn, sau này   có hành động cũng dễ bề tham khảo. 
Tôi trả lời: "Chuyện này rất tốt, đối với bọn này có thể coi   là một cơ hội thực hành hiếm có, trước giờ hai thằng em nào có qua lại   với người làm khảo cổ bao giờ đâu, nếu có thể cùng đi với họ, chắc hẳn   sẽ học được không ít thứ hay ho. Sa mạc thì thằng này từng đi rồi, trước   ở bộ đội từng hai lần đi sâu vào sa mạc diễn tập quân sự. Người dẫn   đoàn thì vẫn dẫn đoàn, nhưng muốn vào sa mạc, thì vẫn phải tìm lấy một   người dẫn đường bản địa thật giỏi. Ngoài ra, về thuật phong thủy tinh   tượng, tôi đây nắm chắc, chỉ cần trên trời có sao, tôi có thể dẫn họ tìm   được tới chỗ họ cần tìm. Chỉ có điều, tôi không hiểu lắm, người Mỹ kia   vì sao lại bỏ tiền tài trợ cho hoạt động thám hiểm của Trung Quốc chúng   ta? Mục đích của hắn là gì? Người Mỹ không phải là Lôi Phong, họ rất   thực dụng, coi trọng lợi ích thực tế nhất, những chuyện không có lợi   lộc, họ sẽ không làm đâu". 
Răng Vàng đáp: "Tình hình tường tận thế nào tôi cũng không rõ   lắm, chỉ biết đại khái thôi. Người Mỹ xuất tiền tài trợ kia là một phụ   nữ, gốc Hoa, bố cô ta là một tỉ phú ở phố Wall, thường ngảy rất thích   các hoạt động thám hiểm khảo cổ. Năm ngoái, bố cô ta cùng một đám nhà   thám hiểm Trung Quốc tới Tân Cương thám hiểm, hình như ông ta rất hứng   thú với cái văn hóa Tinh Tuyệt gì đấy. Lần ấy họ đi là để tìm thành cổ   Tinh Tuyệt vùi sâu trong lòng biển cát, kết quả đi rồi chẳng quay về,   một người cũng không, doanh trại quân đội đóng gần đó đã huy động cả máy   bay đến tìm, nhưng cuối cùng vẫn chẳng thấy, một chút manh mối cũng   không có. Cô ta thừa kế tài sản kếch sù, có lẽ là vẫn không cam tâm chấp   nhận chuyện của ông bố, lần bỏ tiền tài trợ này, chắc là muốn tận dụng   hết khả năng lớn nhất của mình để tìm kiếm người thân lần nữa. Cô ta tuy   là người Mỹ, nhưng suy cho cùng vẫn là Hoa kiều, theo truyền thống của   người Trung Quốc, người ta chết đi, phải chôn ở quê mà, vất vưởng nơi sa   mạc cho nắng gió xối xả, lại lìa xa người thân mình, vậy đâu được yên   lòng." 
Ba người chúng tôi uống tới tận tối mới giải tán, hẹn Răng   Vàng liên lạc bên mua hai miếng ngọc, đồng thời giới thiệu chúng tôi với   giáo sư Trần, người tổ chức đoàn khảo cổ đang sắp lên đường, chúng tôi   có thể gia nhập không, còn cần phải nói chuyện trực tiếp với giáo sư   Trần đã. 
Hai ngày sau, Răng Vàng dẫn chúng tôi đi Thiên Tân, trên đường   Thẩm Dương, có một cửa hàng đồ cổ nho nhỏ, chủ quầy là một phụ nữ trắng   trẻo hơn ba mươi tuổi, chúng tôi đều gọi là chị Hàn. Chị Hàn là tình   nhân của một tay chủ lớn, tay chủ này là một trong mấy nhà sưu tầm đồ cổ   đếm trên đầu ngón tay của Hồng Kông, y mở cho chị Hàn một cửa hàng ở   Thiên Tân, thứ nhất là để chị ta có việc để làm cho cuộc sống đỡ nhàm   chán, thứ hai cũng là để thu mua đồ cổ minh khí nữa. 
Chị Hàn là một phụ nữ không ưa nói năng, nhưng khả năng giám   định đồ cổ thì cực cao, xem đồ của chúng tôi xong, chị ta hào phóng trả   luôn sáu vạn: "Tình hình hiện nay, cùng lắm cũng chỉ năm vạn, trả thêm   cho các chú một vạn, gọi là làm bạn với nhau, sau này có món nào hay,   nhờ các chú lại mang đến chỗ chị!" 
Tôi nhận xấp tiền dầy cồm cộp, tâm trạng kích động, tay cũng   hơi run run, tôi thầm chửi bản thân không ra trò trống gì: " Nhất ơi là   Nhất, mày cũng được coi là loại từng trải sự đời, năm xưa Mao Chủ tịch   đứng trên Thiên An Môn kiểm duyệt Hồng vệ binh, mày có kích động không?   Thẳng thắn mà nói lúc ấy cũng kích động, nhưng đâu thể kích động như bây   giờ. Xấu tốt gì thì mày cũng từng trèo cây trong rừng sâu, từng đào hầm   trên núi Côn Luân, từng tham gia chiến trận, sao hôm nay lại xúc động   đến nỗi cầm không được chắc cả mấy đồng tiền thế này? Ôi, đây chính là   sức mạnh của đồng tiền đây sao! Cũng chẳng còn cách nào khác, mày có thể   không tôn trọng tiền, nhưng không có tiền, sẽ không mắc dây điện cho   dân làng trong núi được, không cải thiện đời sống cho người thân của   đồng đội đã hi sinh của mày được, tiền quá vĩ đại, ra sống vào chết, vì   cái gì, chính là vì tiền mà thôi!" 
Quay về, tôi chia tiền ra làm bốn phần, một phần cho Anh Tử,   một phần cho Tuyền béo, còn một phần đưa bí thư chi ủy chia cho mọi   người, còn lại một phần, tôi giữ lấy mua trang bị và làm kinh phí cho   đợt hành động sau. 
Tuyền béo không muốn nhận phần của mình, cậu ta nói: "Số tiền   lần này bảo ít cũng chẳng phải ít, nhiều cũng chẳng nhiều, đem sửa đường   cho trại Cương Cương chắc chắn không đủ, chia ra cũng chẳng còn bao   nhiêu nữa, nghe nói các liệt sĩ trong đại đội của cậu còn nhiều gia   quyến dưới quê, nhà lại đông người, tuy có trợ cấp của nhà nước nhưng   cuộc sống vẫn hết sức khó khăn, thậm chí có bà mẹ, con trai hi sinh,   cũng chẳng có tiền mà mua vé tàu đi Vân Nam thăm mộ con. Nghe cậu nhắc   chuyện ấy, mắt tớ cay hết cả, cũng thấy khó chịu trong lòng, cậu cứ gửi   hết phần của tớ cho gia đình các liệt sĩ và anh em thương binh đi. Đời   tớ, tâm nguyện lớn nhất chính là làm lính ra chiến trường đánh trận,   nhưng ông già mất sớm, chẳng có cơ hội ấy, cậu giúp tớ hoàn thành nguyện   vọng này đi, sau này mình có nhiều tiền, chia cho tớ cũng không muộn." 
Nhắc đến việc này, tôi cũng rưng rưng nước mắt, vỗ vai Tuyền   béo: "Được! Cậu càng ngày càng giác ngộ đấy. Cơ hội kiếm tiền sau này   còn nhiều, lần tranh thủ đi Tân Cương, kiếm của người Mỹ đi đã!" 
Nghỉ ngơi dăm ngày, Răng Vàng có tin báo, bảo đã hẹn gặp giáo sư Trần rồi, đoạn dẫn tôi và Tuyền béo tới nơi làm việc của ông. 
Giáo sư đã có tuổi, tôi vừa gặp đã không khỏi lo lắng thay cho   ông, bộ xương già này mà còn muốn đi vào sa mạc cát chảy lớn thứ 2 thế   giới hay sao? 
Cùng ngồi với giáo sư Trần, còn có trợ thủ của ông, Hách Ái   Quốc, đây là một trí thức trung niên độ bốn mươi tuổi, đầu tóc rối bù   như tổ quạ, thoạt nhìn là biết thiếu kinh nghiệm xã giao, chiếc kính cận   dày cộp của anh ta cho người ta biết rằng, anh là người một có thái độ   học hỏi nghiêm túc cẩn thận, cầu thực chất, say mê nghiên cứu, và không   chú trọng đến hình tượng của mình lắm. Loại người như anh ta thời Cách   mạng Văn hoá không hiếm, nhưng sau cải cách mở cửa, cùng với trào lưu   tri thức mới, phong trào mới, giá trị mới, những người cổ lỗ như thế đã   không còn nhiều nữa. 
Hách Ái Quốc chăm chú nhìn chúng tôi một lượt, cũng không hề   khách sáo, thẳng thấn nói luôn: "Hai đồng chí, hai vị tới đây làm gì   chúng tôi đã biết, chắc hẳn yêu cầu của đoàn khảo cổ chúng tôi, hai vị   cũng đã rõ, lần này phải nói là phá lệ trong phá lệ, ngoại lệ trong   ngoại lệ đấy. Chúng tôi cần nhân tài, hai vị đây có kinh nghiệm thám   hiểm, sinh tồn trong sa mạc, hay là thông thạo thuật phong thủy tinh tú?   Điều này không thể qua loa đại khái được, nếu hai vị không có bản lĩnh   về mảng này, đừng hòng mà đi cửa sau chạy chọt!" Nói xong lại nhìn Răng   Vàng một cái, "không nể mặt ai hết." 
Giáo sư Trần cảm thấy Hách Ái Quốc nói thẳng quá, ông rất thân   với bố Răng Vàng, thường xuyên thỉnh giáo cha con họ về các vấn đề giám   định thưởng thức đồ cổ, không muốn làm căng quá, bèn đứng lên khỏi sofa   dàn hòa, mời chúng tôi ngồi xuống, chuyện trò vài câu, hỏi tôi và Tuyền   béo mấy chuyện lặt vặt, nghe xong thì mỉm cười gật đầu: "Không đơn giản   đâu nhỉ, từng làm Đại đội trưởng giải phóng quân, còn có kinh nghiệm   chiến đấu, lại từng tới sa mạc, thật là hiếm có, làm người dẫn đoàn cho   lũ mọt sách chúng tôi, chắc là thừa khả năng rồi. Di tích và mộ cổ trong   sa mạc, đại đa số đều lấp vùi trong biển cát vàng, sông Khổng Tước xưa   kia nay đã cạn khô từ lâu, khó mà tìm được, nếu không nắm chắc thuật   phong thủy thiên tinh, e rằng khó mà tìm được, chẳng hay thuật phong   thủy này hai vị có thông hiểu hay không?" 
Tôi biết thuật phong thủy thiên tinh còn gọi là "Thiên cùng   thanh nang thuật", chính là thuật được chép trong chương chữ Thiên của   Thập lục tự Âm dương phong thủy bí thuật, là chương khô khan khó hiểu   nhất, tôi chưa từng áp dụng trong thực tế lần nào, có điều, lúc này cũng   đành cắm đầu nói bốc lên vậy. Tôi giã đầu đáp: "Thưa giáo sư, không   phải tôi nói bốc đâu, chứ thuật phong thủy tinh bàn nguyệt khắc này, tôi   nắm trong lòng bàn tay, có điều chuyên này nên nói bắt đầu từ đâu   nhỉ... " 
Để có được công việc được trả lương bằng đôla Mỹ này, tôi đã   dốc hết hàng tồn trong bụng ra, hy vọng bỏ bùa mê được mấy người này.   May nhờ cuốn sách gia truyền kia, lúc đầu Hách Ái Quốc thấy tôi non trẻ,   tưởng tôi là họ hàng của Răng Vàng, định đến chạy chọt kiếm bữa ăn, tôi   mới nói vài câu, nói đâu ra đấy, anh ta cũng không khỏi nhìn tôi bằng   con mắt khác, ngồi một bên vểnh tai chăm chú lắng nghe. 
Môn phong thủy này, được gọi là tối cao của địa học, đất phong   thủy có thể khái quát một cách đơn giản là: tàng phong chi đại, đắc   thủy chi sở (đất có gió, được nước). Trong Táng thư 1 viết rất hay: "Táng, ấy là giữ gìn sinh khí vậy. Khí theo gió mà tán,   gặp nước thì ngưng. Cổ nhân tụ khí để không tán, hành khí để cho dừng,   vậy nên gọi là phong thủy." 
Đời sau lại mở rộng phong thủy học ra vô hạn, chẳng những chỉ   dừng ở huyệt vị mạch đất của mồ mả, mà còn dần mở rộng thành thuật kham   dư. Kham dư, thiên đại vậy, nói trắng ra tức là môn phân tích quan hệ   giữa trời, đất và con người. 
Nhưng nay tôi chỉ nói với giáo sư và các thầy giáo ngồi đây   một chút về phân nhánh "Phong thủy thiên tinh" trong thuật phong thủy mà   thôi. Đế vương quý tộc thời xưa, hết sức coi trọng việc hậu sự, lúc   sống hưởng thụ thế nào, chết đi cũng phải sở hữu thế ấy, chẳng những   thế, họ còn cho rằng thiên hạ hưng vong, đều bắt nguồn từ long mạch, cho   nên lăng mộ đều phải đặt ở đất phong thủy đẹp. Hoàng đế Ung Chính 2 từng tổng kết một cách thấu đáo về lăng mộ đế vương, ông nói: Nơi càn   khôn chung tú, đất tụ hợp âm dương, huyệt rồng sông báu, thu tận cái   đẹp, thế vững khí thiêng, trăm may thảy vượng, mạch non phép nước, lối   lối rõ ràng, ấy là đất thượng cát. 
Tuy chỉ có mấy câu ngắn gọn, nhưng quả đã miêu tả một cách   trực tiếp nhất, hình tượng nhất, sinh động nhất về việc chọn đất làm   lăng tẩm cho Hoàng đế, nhưng Ung Chính cũng chỉ mới nói nửa chừng, cảnh   giới trời người hợp nhất mà cổ nhân theo đuổi, chẳng những chú trọng đến   phép nước mạch non, mà còn cần trông thiên tinh nhật nguyệt. 
Từ thời thượng cổ, người ta đã thường coi thiên trọng, nghiên   cứu sự biến hóa của tinh tú, suy đoán họa phúc rủi may, khi lựa chọn đất   phong thủy đẹp, cũng áp dụng đến tinh túy của thiên văn học, trời đất   cách nhau tám vạn bốn ngàn dặm, tim thận con người cách nhau tám tấc bốn   phân, cơ thể chia làm kim mộc thủy hoả thổ, ứng với ngũ thiên tinh   nguyên, lại có hai mươi tư vì sao đối ứng với địa lý núi sông trong   thiên hạ, sao có lành ác, đất có tốt xấu. 
Phàm là đất thượng cát, ắt sẽ hô ứng với thiên tinh nhật   nguyệt trên trời, thuật Thanh Ô định huyệt dựa vào sự lưu chuyển của   tinh vân, chính là môn phong thủy thiên tinh khó nắm bắt nhất trong   phong thủy học. 
Trời có hai mươi tư sao, ngày có hai mươi tư giờ, năm có hai   mươi tư tiết, ấy nên phong thủy cũng có hai mươi tư hướng, hai mươi tư   vị 3.   Có thể hiểu sự sắp xếp hung cát của các vì sao này, rồi dùng la bàn   định vị, khắc có thể tìm được chỗ chúng ta cần tìm, có điều thuật phong   thủy thiên tinh này có rất nhiều hệ phái, phương pháp khác nhau, trong   đó cũng không ít những điều mâu thuẫn, di tích trong biển cát mịt mùng,   cách đây ngàn năm, hai hay ba phần trăm cơ hội tìm thấy đã là không nhỏ   rồi. 
Giáo sư Trần nghe đến đây, mừng rỡ đứng bật dậy nói: "Anh   Nhất nói hay quá, ông trời thật có mắt, cuối cùng thì cũng phái nhân tài   như anh đây đến cho chúng tôi. Trong sa mạc Tân Cương, thời gian trải   qua ngàn năm, thậm chí là mấy ngàn năm, bao cuộc bể dâu, ốc đảo và thành   thị ngày xưa giờ đã biến thành biển cát mênh mông, dòng sông mạch núi   cũng đã mất tăm mất dạng, nếu chúng ta muốn tìm lăng mộ trên con đường   tơ lụa cổ xưa, thì con đường ngắm nhất, hiệu quả nhất chính là dựa vào   thuật phong thủy thiên tinh. Tôi tuyên bố, bắt đầu từ ngày hôm nay, hai   vị chính thức gia nhập đoàn khảo cổ của chúng tôi." 
Hách Ái Quốc cũng lại gần thân thiết bắt tay chúng tôi, tỏ ý   xin lỗi vì thái độ lạnh lùng ban nãy: "Xin lỗi xin lỗi, thành phần trí   thức bọn tôi đây toàn một lũ hủ nho, bao nhiêu năm Cách mạng Văn hóa,   chịu khổ chịu sở mãi, đâm ra ngây cả người, không biết nói chuyện, mong   hai vị chớ để bụng." 
Tôi mừng thầm: "Khà khà, mình cũng chỉ biết có từng ấy thôi,   nói thêm nữa thế nào cũng lòi đuôi chuột. Thuật phong thủy thiên tinh   khó đến mức chẳng thể nào tưởng tượng được, mình đây thực ra cũng không   hiểu lắm, nhưng chắc hẳn đám trí thức đeo kính cận các người, cũng khó   mà chịu nổi thử thách khắc nghiệt của sa mạc, tiến vào chưa đến dăm hôm   là phải quay về thôi. Mà ngoài ra mình còn khoa trương lên, đem xác suất   tìm được di tích giảm xuống hết cỡ, không tìm thấy, thì cũng đâu thể   trách mình không biết coi phong thủy thiên tinh, tiền công thì vẫn chẳng   thể thiếu một đồng." 
Tôi đang nghĩ tới chỗ đắc ý, bỗng một cô gái trẻ bước vào,   giáo sư Trần vội giới thiệu với chúng tôi: "Đây là cô Dương, người tài   trợ kinh phí cho chuyến đi của chúng ta lần này, cô ấy cũng đi với chúng   ta luôn, các anh chớ thấy cô Dương là nữ mà lầm tưởng, cô ấy là nhà   nhiếp ảnh của tạp chí nổi tiếng National Geographic đấy." 
Tôi liền ra vẻ lịch lãm, bắt tay cô nàng tỏ vẻ tôn trọng, tôi   nghĩ đối phương là người Mỹ, thì phải nói tiếng Anh với người ta, mà xin   chào nói thế nào nhỉ? Hình như là: "Hê... hê... hê lô!" 
Cô Dương kia mỉm cười: "Anh Nhất ạ, tôi cũng biết nói tiếng   Trung, chúng ta cứ nói chuyện với nhau bằng tiếng Trung đi. Từ sau anh   cứ gọi tôi là Shirley Dương là được." Không ngờ tiếng phổ thông của cô   ta lại giỏi thế, chẳng có chút khẩu âm Mỹ nào, mà thực ra khẩu âm Mỹ ra   làm sao, tôi cũng chẳng biết nữa, dù sao cũng cảm thấy cô ta chẳng khác   gì người Trung Quốc cả. 
Shirley Dương bắt tay Tuyền béo, sau đó đưa ra một nghi vấn,   anh Vương Khải Tuyền (Tuyền béo) cùng đến với anh Nhất, bản lĩnh của anh   Nhất thì ghê gớm rồi, từng làm chỉ huy trong quân đội, lại còn biết   thuật phong thủy thiên tinh, còn anh Tuyền đây có bản lĩnh gì, chúng tôi   vẫn chưa được lĩnh giáo. Lần đi thám hiểm sa mạc này hết sức hệ trọng,   chúng tôi không cần người không có khả năng đặc biệt đâu. 
Tôi không ngờ người Mỹ lại thẳng thắn như vậy, mọi người đều   nhìn cả về phía Tuyền béo, tôi vội nói đỡ: "Ở sa mạc không được an toàn   cho lắm, người bạn này của tôi, có tài xạ thủ." 
Tuyền béo thấy con bé người Mỹ coi thường mình, thì bĩu môi,   tức khí nói: �Tân Cương thì làm sao, năm xưa Tuyền béo này tới sa mạc   Tân Cương càn quét bọn phỉ, đánh lũ thổ phỉ ở ốc đảo Nê Nhã chạy vãi   phân vãi đái, còn tự tay giết chết tên cầm đầu nữa. Các vị xem đi, đây   chính là chiến lợi phẩm." Nói đoạn, lấy miếng ngọc đeo trong người ra   hươ huơ trước mặt mọi người, �đã thấy bao giờ chưa?" 
Tôi đứng bên cạnh nhếch mép cười thầm, nghĩ thằng ngốc này có   bịa chuyện thôi cũng không biết nói cho kín kẽ, lại còn vơ lấy sự tích   anh hùng của đời ông già cậu khoác lên mình nữa chứ, đi Tân Cương quét   phỉ cái mẹ gì, cái hồi ấy cậu còn mặc quần hở đũng đấy, nói cậu từng ăn   thịt dê nướng Tân Cương xem ra còn chấp nhận được. Việc đến nước này tôi   cũng chỉ còn cách tung hứng theo cậu ta, nếu Tuyền béo không đi, tôi   cũng không đi, chắc là cuối cùng họ cũng đành phải thỏa hiệp thôi. 
Ấy thế mà chẳng ai phản bác câu nào, ánh mắt giáo sư Trần và   Shirley Dương đều bị miếng ngọc trên tay Tuyền béo thu hút, bàn tay cậu   ta đưa đi đâu, ánh mắt của mọi người dịch theo tới đó, đến cả chớp mắt   cũng không chớp lấy một cái. 
Shirley Dương vốn không đồng ý cho Tuyền béo tham gia đoàn   khảo cổ, có điều nhìn thấy miếng ngọc bội của cậu ta xong, cô ta không   hề do dự bằng lòng trả công chúng tôi mỗi người mười ngàn đô, nếu tìm   được thành cổ Tinh Tuyệt lòng sa mạc, sẽ trả thêm gấp đôi. Nhưng món   tiền này phải đợi chúng tôi trở về tè Tân Cương mới thanh toán. 
Răng Vàng cũng từng thấy miếng ngọc bội của Tuyền béo, hắn   sành sỏi như vậy, mà cũng không thể nhìn ra được lai lich miếng ngọc   này. Về mặt này thì hắn không biết nhìn hàng bằng mấy người như giáo sư   Trần, suy cho cùng Răng Vàng cũng chỉ bán mấy đồ lặt vặt, còn giáo sư   Trần đã vùi đầu nghiên cứu văn hóa cổ Tây Vực mấy chục năm, cha của   Shirley Dương là bạn thân của ông, từ nhỏ cô ta đã được hoàn cảnh gia   đình hun đúc, cũng có thể coi là một nửa chuyên gia về lịch sử Tây Vực,   cho nên hai người họ vừa nhìn thấy miếng ngọc là nhận ra ngay lai lịch   của nó. 
Giáo sư Trần cho rằng miềng ngọc này chí ít cũng có tới một   ngàn năm trăm năm cho đến hai ngàn năm lịch sử, chữ khắc trên đó là văn   tự Quỷ Động. Quỷ Động là một dân tộc thiểu số ở Tây Vực thời cổ đại, dân   tộc này đã diệt vong từ lâu, trong thư tịch cổ khai quật ở Đôn Hoàng có   ghi chép, nữ vương nước Tinh Tuyệt chính là người tộc Quỷ Động, mười   chữ Quỷ Động trên miếng ngọc này rốt cuộc có ý nghĩa gì, thì còn cần   khảo chứng thêm mới biết được. 
Giáo sư Trần và cha của Shirley Dương đều là người say mê văn   hóa Tây Vực. Tinh Tuyệt, tòa thành từng một độ phồn hoa rực rỡ, có thể   nói thuộc hàng nhất nhì trong ba mươi sáu nước Tây Vực, thời kì đỉnh   cao, cả Tây Vực hiếm có thành nào bì được, sau đó hình như đã xảy ra tai   ương gì rất lớn, nữ vương qua đời, sau đó cả tòa thành cũng biến mất   luôn. 
Vinh quang của quá khứ nay đã bị cát vàng vùi lấp, manh mối   chứng minh nó từng tồn tại, chỉ có những ghi chép vụn vặt trong thư tịch   cổ, tương truyền nữ vương Tinh Tuyệt là đệ nhất mỹ nhân của Tây Vực,   nàng giống như vầng dương trên bầu trời, mỗi khi xuất hiện đều khiến   trăng sao phải lu mờ khuất lấp. 
Cha Shirley Dương cũng chính vì tìm kiếm lăng tẩm của vị nữ   vương này, tổ chức một đoàn thám hiểm gồm năm vị học giả Trung Mỹ, mang   theo các trang thiết bị tối tân, tiến sâu vào biển cát, để rồi mãi mãi   không bao giờ trờ lại. 
Chuyến đi lần này, thứ nhất là để tiến hành khảo sát và đánh   giá hiện trạng mộ cổ trong sa mạc, thứ hai là thử vận may, xem liệu có   thể tìm lại được di thể của năm nhà thám hiểm, để còn an táng cho tử tế. 
Shirley Dương muốn mua lại miếng ngọc của Tuyền béo, tôi và   cậu ta nhận thấy đây là hàng quý cần giữ, nên nghiến răng không bán,   trong bụng toan tính xem có thể chém cô ta bao nhiêu đô. 
Chúng tôi gia nhập đoàn thám hiểm gồm các học giả và nhiếp ảnh   gia, tôi làm người dẫn đoàn, Tuyền béo làm đoàn phó. Việc đi sa mạc, cứ   quyết định như vậy. 
Đoàn tàu lao vút trên dải đất miền Tây rộng lớn, tôi và Tuyền   béo ngủ trong toa nằm không biết trời đâu đất đâu, trạm đầu tiên là Tây   An, ở đó tập trung với mấy học trò của giáo sư Trần, rồi tới Urumchi,   trang bị của đoàn thám hiểm sẽ được vận chuyển thẳng đến đó. 
Hách Ái Quốc bước vào, liền bị mùi thối thối chân của Tuyền   béo xộc lên suýt nữa ngã nhào, anh ta lay tôi dậy: "Đồng chí Nhất, mau   dậy, dậy đi, giáo sư tìm anh bàn chút chuyện, qua đây một lát!" 
Tôi ngó qua ngoài song cửa, trời vẫn còn sáng, cũng chẳng biết   là mấy giờ nữa, ngủ mê mệt hết cả, khoác áo theo Hách Ái Quốc sang   phòng bên cạnh. 
Giáo sư Trần nói: "Sáng sớm mai chúng ta sẽ tới Tây An, đón ba   học trò của tôi, thành viên coi như là đủ. Anh là đoàn trưởng, nên muốn   bàn bạc trước với anh một số vấn đề về lộ trình." 
Shirley Dương ngòi bên cạnh cũng nói: "Đúng thế, anh Nhất, tôi   và giáo sư đã bàn rồi, dự định sẽ xuất phát từ hồ Bostan, đi về hướng   Nam tìm kiếm sông Khổng Tước, sau đó, băng qua con sông này đi sâu vào   sa mạc, rồi men theo sông ngầm Từ Độc xuôi Nam, tìm di tích thành cổ   Tinh Tuyệt, chúng tôi muốn hỏi ý kiến anh thế nào." 
Tôi thấy thật tức cười, đám trí thức và người giàu này, toàn   đánh trận trên giấy nghĩ ngợi xa xôi, các người đi vậy khác nào đi một   vòng sa mạc, ở sa mạc có ai dám đi hình chữ Z bao giờ đâu, cho dù không   chết đói, chết khát, chết nóng, thì cuối cùng cũng chết mệt. Có điều tôi   luôn nghĩ mấy người này thuộc loại ăn no rửng mỡ, thừa giấy vẽ voi,   sống an nhàn vui vẻ không thích, nằng nặc đòi vào sa mạc chịu khổ chịu   sở, chắc chắn không quá hai ba ngày cũng khóc mếu đòi về, cho nên lộ   trình thế nào không quan trọng, về đến nơi trả tôi tiền là được. 
Tôi nới với Shirley Dương: "Cô Dương này, tuy tôi là người dẫn   đoàn, nhưng tôi không có tư cách tham gia quyết định sắp xếp lộ trình,   các vị cứ xác định rõ lộ tuyến và mục tiêu, tôi phụ trách đưa mọi người   tới đó, nói cách khác, chị là người quản lý, còn chúng tôi là culi" 
Lời vừa nói ra, tôi lại thấy hơi hối hận, vẫn có câu, cầm tiền   người ra giúp người tai qua, người ta bỏ tiền thue mình, mình đương   nhiên phải làm tròn bổn phận, thế nên tôi nói tiếp với họ, vấn đề lộ   trình phải đợi đến Tân Cương, tìm một người dẫn đường bản địa hỏi ý kiến   rồi mới quyết định được, bây giờ nói gì cũng vẫn còn sớm, việc tìm   người dẫn đường đó để tôi lo liệu. 
Mọi người lại bàn bạc thêm một số chi tiết, sau đó ai nấy đều   về nghỉ, sau cuộc nói chuyện trên tàu này, tôi lờ mờ cảm thấy, mấy người   này quyết tâm rất lớn chưa chắc vào sa mạc mấy hôm đã đòi về như tôi   vẫn nghĩ. 
Ở Tây An, chúng tôi gặp các thành viên còn lại của đoàn khảo   cổ, họ đều là học trò của giáo sư Trần, Tát Đế Bằng chân chất, Sử Kiên   cao cao, và Diệp Diệc Tâm là nữ nữa. 
Cộng với năm người lúc đầu, tổng cộng tám người. Đến Tân   Cương, tôi liên lạc với Lưu Cương, một đồng đội ngày trước, anh ta đời   sau của lữ đoàn 359 Tân Cương, sinh ra và lớn lên ở Tân Cương, nhưng   cũng không quen thân lắm với người bản địa, muốn tìm một người dẫn đường   bản địa quen thuộc địa hình sa mạc không dễ dàng gì, cuối cùng phải   thông qua bạn bè của Lưu Cương, mới tìm được một ông già buốn bán súc   vật. 
Giờ chẳng ai gọi tên thật của ông già này nữa, mọi người đều gọi ông ta là Anliman, tức là bản đồ sống trong sa mạc. 
Lão Anliman ngậm cái tẩu thuốc, lắc đầu lia lịa: "Không được   à, không được à, bây giờ mà, là mùa gió máy mà, vào sa mạc, ông già   Hutai (ông trời), giáng tội vạ xuống à... " 
Chúng tôi đành giở chiêu vừa đám vừa xoa, tôi bảo giáo sư Trần   lấy giấy tờ ra, giải thích cho ông ta biết chúng tôi là cán bộ nhà nước   cử đến công tác, các đồng chí ở địa phương phải phối hợp làm việc, nếu   ông mà không dẫn đường cho chúng tôi, chúng tôi sẽ gọi cảnh sát, thu hết   lạc đà và lừa, không cho ông buôn bán nữa. 
Shirley Dương lại nói, chỉ cần ông đồng ý dẫn đường, tất cả   gia súc của ông, tôi sẽ mua giá gấp đôi, sau khi từ sa mạc trở về, gia   súc vẫn là của ông, tiền cũng vẫn của ông. 
Ông giá Anliman chẳng còn cách nào khác, đành chấp thuận,   nhưng đưa ra một yêu cầu: "Đừng lái cái xe hơi mà, Hutai không thích cái   máy móc à, con lạc đà mà, phải mang theo nhiều nhiều, Hutai thích lạc   đà mà." 
Về khoản này, tôi nhất trí với Anliman, trong sa mạc lạc đà đáng tin cậy hơn xe hơi nhiều. 
Ông Anliman chọn lấy hai mươi con lạc đà, ngày xuất phát, đem   hết hành lý trang bị của mọi người chất lên lưng chúng, ngoài ra còn   mang theo một số lượng lớn bánh đậu và muối, Tuyền béo vừa giúp ông ta   chuyển đồ vừa hỏi: "Ông ơi, trong sa mạc, mình toàn ăn bánh đậu với muối   sao? Thế chẳng phải càng ăn càng khát à?" 
Ông Anliman cười to: "Ai dà, u li an jiang (anh bạn to khỏe)   của tôi, cái này mà, cậu muốn ăn cũng được, nhưng Hutai bảo mấy thứ này   này, là để cho lạc đà ăn à." 
Ông Anliman bảo mọi người, mùa này là lúc nguy hiểm nhất trong   sa mạc, đường đầu tiên từ hồ Bostan đến di tích Thành Tây Dạ, có sa mạc   và có cả hoang mạc, cũng may có sông Khổng Tước cổ nối liền, nên không   khó nhận ra, nhưng muốn đi sâu nữa, liệu có tìm thấy sông ngầm Từ Độc   hay không, còn phải xem xem ý của Hutai thế nào. 
Đoàn chín người chúng tôi gọi là đoàn khảo cổ, chi bằng gọi là   đoàn lạc đà còn hơn, thực phẩm mang theo, chắc không đủ một tháng, nước   sạch đủ dùng hơn chục ngày, có thể bổ sung nước ngọt ở các ốc đảo và   sông ngầm dọc đường. Ngoài ra còn có mấy túi da lớn đựng sữa chua, lúc   nào khát không chịu được nữa, uống một ngụm giải khát, hiệu quả hơn gấp   uống chục ngụm nước ngọt. Cộng thêm các loại thiết bị, khiến mỗi con lạc   đà đều phải chở rất nặng, khi lên đường, mọi người chỉ có thể dựa vào   đôi chân, nửa đường bộ, nửa đường cưỡi lạc đà.
| 1 | Táng thư: tương truyền do Quách Phác, thuật sĩ nổi tiếng thời Tấn (265-420) viết. | 
| 2 | Ung Chính: vị vua thứ sáu đời Thanh, con vua Khang Hy, bố vua Càn Long, trị vì từ năm 1723 đến năm 1736. | 
| 3 | "Hai mươi tư hướng" hay "hai mươi tư vị" trong thuật phong thủy bao gồm: Thiên hoàng, Thiên cang, Thiên quan, Thiên uyển, Thiên thị, Thiên trù, Thiên hộc, Thiên hán, Thiên lũy, Thiên phụ, Thiên cứu, Thiên quỷ, Thiên ất, Thiếu vi, Thiên quan, Thiên đế, Nam cực, Thiên mã, Thiên bình, Thái ất, Thái vi. | 
  
